BƯỚC ĐẦU HỌC PHẬT

BƯỚC ĐẦU HỌC PHẬT
========================
Lời Giới Thiệu

Lý do tại sao chúng ta phải học Phật là để biết sử dụng đúng pháp để chúng ta có thể sống an ổn, thành tựu viên mãn trong đời này và đời sau. Chúng ta có duyên lành được sinh ra làm người, được học Kinh pháp, được thân cận với thiện hữu tri thức và cuối cùng khi chúng ta có đầy đủ phước duyên thì được sinh về cảnh giới Phật. Thân người khó được và khi chết thì không biết chúng ta sẽ thọ thân nào. Có khi đến lúc già nua, lớn tuổi thì chúng ta mới nghe được chánh pháp. Gặp được chánh pháp phải là do một duyên lành lớn mà đất Phật thì lại rất khó để trở về. Nhưng khi bắt đầu tu học, quan trọng nhất là sự hiểu biết chân chánh để chúng ta không bị lầm lẫn hoặc dễ bị chao đảo bởi những tư tưởng đối nghịch của những người khác. Hiểu biết chân chánh cũng giúp cho chúng ta có một niềm tin vững mạnh để tiếp tục đi và vượt qua đoạn đường dài của tu học. Chúng ta phải hiểu giáo lý đạo Phật một cách rõ ràng để chọn một phương pháp tu học hoặc hướng đi vững vàng. Con đường tu học là con đường dẫn chúng ta đi sâu vào nội tâm để tìm lại con người thật của chính mình, tìm những gì gần gủi với chúng ta để chúng ta có thể tìm được an lạc thay vì tiếp tục xây dựng giấc mộng trong cuộc sống hiện tại.  
Sau đây là những góp nhặt của 6 bài giảng của Thầy Thích Minh Hiếu. 6 bài giảng này (Tu Theo Đạo Phật, Trí Tuệ và Nhân Bản Của Đạo Phật, Trải Tâm Vào Đạo, Tìm Lại Chính Mình, Tịnh Bất Động Đạo và Tịnh Tín Bất Động) chỉ là phần nhỏ của số băng thâu cho những thời giảng Pháp của Thầy tại Úc, Mỹ, Gia Nã Đại và Âu Châu. Vì đề tài của những bài này có phần liên quan với nhau nên đã được tóm tắt lại thành một bài để chúng ta nắm được ý chính trước khi tuyển lựa đề tài để nghe và học hỏi thêm trong hơn hàng trăm băng giảng của Thầy (www.minhquangthienvien.com).

*****

TU THEO ĐẠO PHẬT

 Làm thế nào để tu theo đạo Phật?
Chúng ta rất dễ hiểu lầm niềm tin và hiểu biết.  Nếu chúng ta chỉ tin theo đạo Phật thì đó chỉ là niềm tin thôi, chỉ là cảm tín vì gia đình theo đạo Phật từ lâu đời.  Khi chỉ có cảm tín thì cũng rất dễ bỏ.  Nếu chúng ta thực hành những gì Phật dạy để làm lợi ích cho cuộc sống của chúng ta thì đó là vấn đề thiết thực.  Đức Phật nói: “Nếu tin ta mà không hiểu ta thì đó là phỉ báng ta.”  Do đó chúng ta phải hiểu Phật để thực hành những gì Phật dạy.  Chúng ta tu học Phật để cải thiện đời sống chúng ta.  Đạo Phật khẳng định rằng chúng ta không bao giờ được mê đạo.  Mê đạo là ta bỏ đi cuộc sống bình thường để chạy theo đạo giáo.  Chúng ta học theo con đường tỉnh thức để điều chỉnh mê lầm và làm cuộc sống chúng ta tốt đẹp hơn chứ không phải từ bỏ cuộc sống.  Từ bỏ cuộc sống trách nhiệm trong xã hội là một điều sai lầm bởi vì đời sống có hai vai trò:
(1) Vai trò phát triển xã hội và xã hội cần sự đấu tranh để tiến triển, để sinh tồn.  Nếu chúng ta học đạo Phật và đem đạo để mà thay đổi sự phát triển đó thì đạo Phật trở thành tiêu cực.  Vai trò của đạo Phật là đưa cái lãnh đạo tinh thần vào chỗ hiểu biết đời sống một cách rõ ràng và do đó tránh đi những căng thẳng, khổ đau của sự đấu tranh, của những phức tạp trong đời sống.
(2) Vai trò của những vị xuất gia là trách nhiệm hoằng pháp.  Vì họ không còn dính líu gia đình cho nên họ đi mọi nơi để điều chỉnh những gì mà làm đảo lộn cuộc sống, giúp đỡ người về phần tỉnh giác để người ta được an lòng và tiếp tục gánh vác trách nhiệm của chúng ta trong cuộc sống gia đình và xã hội.

Đạo Phật dạy chúng ta phải biết khi nào là vừa đủ mà không đòi hỏi thái quá, dạy chúng ta sống thiểu dục tri túc để cuộc sống được bình an và đây là sự điều chỉnh.  Khi chúng ta muốn tu theo Phật thì phải ứng dụng, thực hiện những gì mà làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn.  Muốn phụng sự chúng sanh thì chúng ta phải có khả năng về mặt tiền tài, vật chất và tinh thần.  Phật không có nói là người học Phật phải bỏ gia đình, phải đi tu.  Giáo lý đạo Phật là điều chỉnh cuộc sống bằng hành vi thiện và tư tưởng thiện.  Ta không thể vì phụng sự cho đạo pháp rồi bỏ bê gia đình vì như vậy những giới trẻ của xã hội sẽ trở nên những thành phần bất thiện do không có sự dạy dỗ, nuôi nấng, ăn học đàng hoàng.  Có khi giới trẻ sẽ trở nên bất mãn với đạo giáo mà cha mẹ chúng đã theo và chính chúng ta đã làm cho tín tâm của chúng băng loạn.  Khi thi ân chúng ta cũng không cầu sự đền đáp có nghĩa là chúng ta ban bố niềm vui, hạnh phúc đến mọi người mà không lấy đó làm nền tảng chứng minh là chúng ta đã và đang tu hành.  Chúng ta nên tu một cách thầm kín chứ không cần phải chứng tỏ với mọi người là mình đang tu.  Là Phật tử tại gia thì chúng ta tu theo con đường của trí tuệ để điều chỉnh những vấn đề làm cho chúng ta khổ sở, băn khoăn trong cuộc sống.
Phật định nghĩa địa vị của Phật tử tại gia rất rõ ràng.  Về vấn đề tài sản thì được chia ra 5 phần để sử dụng: (1) chi phí trong cuộc sống hằng ngày, (2) chi phí trong lúc khẩn cấp, (3) cúng dường, (4) phụng dưỡng cha mẹ và (5) bố thí người nghèo để đức lại cho con cháu.  Hiểu rõ như vậy rồi thì chúng ta sẽ không bị lầm lẫn hoặc nghe theo lời xúi giục của người tà ma tạo ác nghiệp. 
Chúng ta đưa đạo Phật vào cuộc sống để chúng ta có thể đạt được sự tự tại, bình an ngay trong cuộc sống này chứ không phải giải thoát là chúng ta buông bỏ cuộc sống hiện tại.  Đạo Phật giúp chúng ta đủ nghị lực, sáng suốt để chu toàn bổn phận, trách nhiệm cái vai trò của chúng ta trong cuộc sống gia đình để cho mọi người trong gia đình cũng được hạnh phúc, bình an như chúng ta vậy.  Phật nói rằng:  “Người không quy y Tam Bảo nhưng sống một đời lương thiện thì khi chết được sinh lên cõi trời.  Còn người quy y Tam Bảo mà làm những điều bất thiện khổ đau cho người khác thì khi chết vẫn bị đọa địa ngục.”  Cho nên tự chúng ta có trách nhiệm với nhân quả của chính chúng ta.  Chúng ta đều đang ở trong cảnh tam giới[1] vô thường thì phải làm sao thoát ra khỏi cảnh tam giới đó để đạt giải thoát nhưng thoát ra đây có nghĩa là ta sống tỉnh thức thay vì mê đắm để không bị tham, sân đốt cháy bởi những phiền lụy trong cuộc đời.  Tất cả những pháp môn như là Tịnh Độ, thiền, mật, luật, v..v…chỉ là phương tiện để chúng ta chọn đường giải thoát ra khỏi cảnh tam giới và sau khi ra rồi thì ở bất cứ vị trí nào trong cuộc sống này chúng ta là con người tự tại, an lạc. 
Quy y Phật, quy y Pháp và quy y Tăng là tỉnh thức, sống con đường chân chánh và sống một cuộc đời hòa hợp thanh tịnh.  Như vậy là chúng ta có chân chánh, hòa hợp và thanh tịnh thì chúng ta sẽ có hạnh phúc.  Phật cứu độ chúng sanh là cứu độ cái nhân chứ không phải cứu độ cái quả.  Có nghĩa là những gì Phật dạy là để cho ta sống một đời thiện nghiệp để được giải thoát và hạnh phúc chứ không phải là Phật cứu cái quả của chúng ta hoặc thay thế cái khổ cho chúng ta được bởi vì khi quả chín mùi từ những nhân do chính chúng ta gây ra thì chúng ta phải trả. 
Khi làm một việc gì mà không có mong cầu và làm hết sức chúng ta thì tự nó có kết quả và có giá trị tuyệt đối.  Khi ta học đạo thì đừng để bị lường gạt bởi vì ta theo Phật là để được sáng suốt, làm lợi ích và hạnh phúc cho người xung quanh.  Con đường học Phật là con đường của hạnh phúc chân chánh chứ không phải bị mê hoặc.  Chúng ta bị mê hoặc là tại vì chúng ta chạy theo và tranh đấu cho những giá trị ảo nhưng khi thấy được giá trị thật thì chúng ta lại đau khổ, thất vọng. 
Hiện tại hôm nay không có hạnh phúc thì sẽ không có hạnh phúc cho ngày mai.  Nếu như ta có mưu cầu, tính toán quá thì ta dễ bị lừa dối, gạt gẫm.  Còn hạnh phúc có trong tay mà ta mong cầu thái quá thì cũng bị khổ đau.  Những hạnh phúc chúng ta muốn cũng phải xuôi theo chu kỳ của vũ trụ, của công lý tự nhiên thì mới có kết quả tốt.  Có nghĩa là một hạnh phúc bình thường là hạnh phúc chân chánh. 
Tam thế chư Phật dạy rằng:  
“Điều ác chớ làm, điều thiện vâng làm
Giữ tâm thanh tịnh, lời chư Phật dạy” 
Nếu giữ 5 giới là chúng ta chỉ có tránh làm ác thôi và đây là con đường tiêu cực.  Sau khi tránh làm các việc ác thì chúng ta phải siêng làm việc thiện và đây là con đường tích cực có nghĩa là chúng ta chia xẻ hạnh phúc của chúng ta với người khác và khuyên họ làm lành, lánh ác, sống trong hòa hợp, thương yêu.  Giới không tà dâm bất chánh là việc làm lánh ác (phần tiêu cực) nhưng làm sao để hợp với “điều thiện vâng làm”(Hán Việt: chúng thiện phụng hành) để trở nên tích cực?  Muốn cho tích cực thì chúng ta không được khiêu khích hoặc nói lời mê hoặc người.  Giới không nói dối mà chúng ta muốn làm cho tích cực thì ta phải nói lời chân chánh, không thị phi nhân ngã.  “Giữ tâm thanh tịnh” (Hán Việt: Tự tịnh kỳ ý) là làm sao cho tâm thanh tịnh.  Phật chỉ có dạy bấy nhiêu đây thôi.  Cho nên chúng ta giữ giới nhưng cũng đồng thời phải làm sao cho tích cực trong vấn đề “chúng thiện phụng hành” chứ nếu như chúng ta tiêu cực thì chúng ta không đưa được đạo Phật vào trong cuộc đời. 
Đạo Phật là phụng sự chúng sanh cho nên người học Phật phải đem đạo vào đời và làm cho hạnh phúc trong cuộc sống.  Cuộc sống gồm có phấn đấu, kinh tế, xã hội, quân sự, chính trị, văn hóa, v..v…thì đạo Phật có thể điều chỉnh những cái khó khăn, phức tạp của những thành phần này chứ không thay thế những vai trò trong cuộc sống.  Còn những người muốn làm cho giải thoát, thoát ly cuộc sống là vai trò của những vị tu sĩ vì họ không có trách nhiệm gia đình.   
Giá trị của đạo Phật là khi có mặt ở chỗ nào là đem lại bình an, trí tuệ, hiểu biết cho cuộc sống.  Cái nhìn của chúng ta chính xác thì bước đi mới được vững vàng và kết quả tốt đẹp.  Hôm nay chúng ta sống bình an, hạnh phúc là nền tảng cho ngày mai.  Dù ở trong môi trường nào cũng không nên quá nghiêm túc vì như vậy thì sẽ trở nên máy móc.  Chúng ta nên tập một đời sống quân bình trong mọi sự việc để tránh quá căng thẳng nhưng cũng không quên vấn đề nhân quả và không quên rằng chỉ chính chúng ta mới quyết định được nhân quả của mình.

TRÍ TUỆ VÀ NHÂN BẢN CỦA ĐẠO PHẬT

Đạo Phật là con đường thực tế của sự sống có trí tuệ và chúng ta lạc trú trong hiện tại đó là nhân cho quả về sau. Quan trọng thiết yếu là Chư Tăng Ni phải làm thế nào để đưa đạo Phật vào giá trị sống của từng người con Phật.  Phật tử thì cảm nhận cái sống giá trị đó sẽ đem đến hạnh phúc nhân quả cho đời này và mãi mãi về sau. 
Khi ta chạy theo một cái gì đó thì ta lại đóng hết các cánh cửa bên cạnh mà chính những cái đang ở bên cạnh ta đó đem đến hạnh phúc thực tế.  Chất liệu của chúng sanh là sự tưởng tượng đến những cái ngoài tầm tay mà khi được nó rồi thì lại tuyệt vọng vì nó không đúng như chúng ta tưởng.  Bởi vì thế ta phải có một nhận thức rõ ràng để tạo một cuộc sống tự lực.  Ta phải loại bỏ chất liệu chúng sanh để trình độ Phật tánh gần gủi với ta hơn để ta trở nên cao thượng hơn.  Ta phải đấu tranh những chuyện ở đời bằng trí tuệ mà trí tuệ đó ta phải có công phu để vượt qua những trở ngại. 
Phật giáo là trí tín chứ không phải là mê tín
*  Tin bằng trí tuệ
*  Phải biết hành động đúng thời cơ, đúng lúc chớ không lạc vào cuồng tín
*  Đạo Phật nhập thế chứ không yếm thế

I.  Đạo Phật Là Con Đường Của Trí Tuệ 
Giá trị của đạo Phật là con đường trí tuệ, là hiểu rõ nhân, quả, duyên. Do đó chúng ta không mê tín sợ hãi, không tham vọng, không cần cầu cạnh, ước mơ điều gì mà chính ta nổ lực để nắm lấy hạnh phúc trong tay. Đạo Phật nhận thức rằng tất cả các pháp do duyên sanh thì nhân quả tùy theo duyên đó mà ứng dụng.  Khi đủ duyên thì hợp, hết duyên thì tan rã.  Đạo Phật nhìn cuộc sống bằng pháp như thị. 
Trí tuệ có nghĩa là sự nhận thức rằng các pháp do duyên sanh và căn cứ vào nhân quả để sống một đời sống thánh thiện, giúp chúng ta và người, không có sự sợ hãi vào thần linh.  Câu: “Đức trọng quỉ thần kinh” là người nào có đức thì quỉ thần cũng phải tôn trọng.  Khi ta có đức, có tu hành đàng hoàng thì có chư thiên thường hộ vệ có nghĩa là có những người thích gần gũi với thiện hữu thì hay đi theo chúng ta và giúp đỡ, hổ trợ khi chúng ta gặp khó khăn, trở ngại cho nên gọi là hộ vệ.  Câu:  “Chở che nhờ đức cao dầy, tu sao thế mấy không bằng tu tâm” có nghĩa là cái đức của chúng ta che chở cho chúng ta chứ không phải thần linh nào. 
Tại sao gọi là mê tín? Mê tín là cả nhân loại từ xưa đến nay khi con người đối diện với thiên tai là hay cầu cạnh một đấng thần linh để mong có sự an lành và được bảo vệ.  Nhưng đó là do sự sợ hãi, tham vọng mà ra.  Khi ta yếu đuối thì trở thành mê tín.  Phần khác nữa là do sức tưởng tượng của ta tạo ra những cảnh làm cho ta yếu đuối, sợ hãi. 
Tại sao gọi là thần, thánh?  Những người có trung can, nghĩa tín mà khi chết đi thì gọi là thần.  Những người thông minh, hiền trực mà khi chết đi thì gọi là thánh. 
Con người chúng ta trọn đời không làm phước, làm thiện mà lại hay cầu xin những quả lành.  Đạo Phật rất là minh trực trong lý nhân quả.  Phật và Bồ Tát là những vị đã giải thoát, tự tại, đã nhận thức rõ thực chất vô thường của các pháp cho nên có sự khác biệt giữa sự sợ hãi, ước mơ, tham muốn của con người và sự nhận thức đạo Phật là con đường của trí tuệ.  Hai cái đó là quá trình của chuyển hóa. 
Đạo Phật là con đường của trí tuệ vì khi Phật thành đạo thì ngài tuyên bố chúng sanh đều có đức tướng Như Lai cho nên ngài trở lại để độ sanh. Lục Tổ Huệ Năng cũng vậy sau khi chứng ngộ ngài đã tuyên bố rằng: 
“Nào ngờ tự tánh chúng ta vốn thanh tịnh
Nào ngờ tự tánh chúng ta không sanh không diệt
Nào ngờ tự tánh chúng ta hay sanh muôn pháp
Nào ngờ tự tánh chúng ta vốn tự đầy đủ
Nào ngờ tự tánh chúng ta vốn không dao động”

Đạo Phật là con đường thực tế, là tam thường bất túc.  Có nghĩa là ăn, ngủ, mặc rất là đơn giản, không nên quá mức.  Không tăng tham muốn của chúng ta mà lại còn đem đến hạnh phúc trong sự thiếu thốn. 
Những người mê tín thì còn có thể chữa vì họ còn có sợ vào một đấng nào đó và khi đủ duyên thì họ tỉnh ngộ và tu tập.  Một loại người rất khó dạy đó là người không tin, có nghĩa là không sợ trời đất gì hết.  Nhưng khi nhân quả đến thì phải thọ mà không thoát được.  Do trí tuệ ta hiểu rõ và nhận thức sáng suốt duyên và nhân quả. 
Khi chúng ta cầu nguyện Quán Thế Âm thì chính chúng ta sống với đại từ, đại bi.  Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát là đại nguyện.  Di Lặc Bồ Tát đại diện cho lòng hoan hỷ, không đố kỵ, không ghét ghen.  Khi khởi tâm giác ngộ thì ta có căn bản thành Phật.  Tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật có nghĩa là chúng ta đều có hạt giống Phật thì đâu có sợ là không thành Phật chỉ sợ là mau hay chậm thôi.  Nếu ta nổ lực tu thì hạt giống mau thành cây thành quả.  Cho nên sức lực là do chính chúng ta không phải do thế lực nào ở bên ngoài.  Khi ta niệm hồng danh thì ta học theo đức tướng của Phật và Bồ Tát bằng trí tuệ. 
* Nam Mô Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát là đại diện cho đại trí
* Nam Mô Phổ Hiền Bồ Tát là đại diện cho đại hạnh
* Nam Mô Thế Chí Bồ Tát là đại diện cho đại hùng lực
* Nam Mô A Di Đà Phật là đại diện cho vô lượng quang (trí tuệ), vô lượng thọ (định), vô lượng cam lộ (giới, thanh lương).

Danh hiệu Phật là làm cho chúng ta sống với định, tuệ, từ bi, hạnh nguyện, bố thí, vị tha.  Khi niệm hết danh hiệu thì tưởng tượng Bồ Tát luôn hổ trợ chúng ta đó là vì những đức tánh Phật, Bồ Tát có trong chúng ta.

II.  Đạo Phật Là Con Đường Nhân Bản 

Tính nhân bản của đạo Phật là gần gủi với quần chúng, là nhập thế.  Không thể rời quần chúng mà có đạo Phật.  Tính nhân bản là hòa hợp với con người cho nên ai cũng có thể tu tập được.  Chỉ có con người mới sanh phân biệt chứ quan điểm đạo Phật không thay đổi dù cho truyền vào một nước nào đi nữa cũng vẫn vậy. 
Những bài Kinh ta đang tụng là tiếng Hán thì ta không hiểu nhưng dịch sang tiếng Việt thì ta hiểu.  Cho nên Kinh gọi là Tu Đa La có nghĩa là liễu nghĩa, hợp khế cơ và khế lý.  Kinh hợp với căn cơ và thời điểm.  Lời Kinh dạy khi thực hiện được thì có lợi ích cho chúng ta, cho người.  Nếu y Kinh để giải nghĩa thì oan cho tam thế chư Phật.  Nhưng nếu “ly Kinh nhất tự thì đồng ma thuyết” (rời một chữ trong Kinh mà nói thì là ma nói).  Cho nên nói làm sao mà tùy căn cơ và thời điểm làm lợi ích cho người thì đó là Kinh. 
Đạo Phật là con đường tích cực như bài Tứ Hoằng Thệ Nguyện là tư tưởng tích cực.  Chúng ta phải nhận thức những rắc rối của cuộc đời để có thể hóa giải nó ngay trong cuộc sống.  Chúng ta không thể chạy trốn nhân quả mà phải đối diện với thực tại và giải quyết bằng trí tuệ, kinh nghiệm chân lý và nhận thức tất cả các pháp như thị, như thực thì lúc đó là ta hiểu tính nhân bản.  Vấn đề quan trọng là ta phải làm gì để giải quyết cho đời này và đời sau.

III.  Đạo Phật Nhập Thế 

Đạo Phật nhập thế tức là sử dụng những phương tiện để làm cho chúng sanh hết khổ đau và đó là con đường nhân bản của đạo Phật.  Nếu như ta cố gắng làm thì nhân đó tạo quả trong tương lai.  Khi nghe những bài Kinh nào có tác dụng để sửa đổi con người chúng ta thì đó chính là Kinh khế cơ và khế lý.  Lợi ích của Kinh là có thể chất xúc tác cho ta.  Đời sống của Phật luôn thể hiện những sinh hoạt giống như chúng sinh không có vẻ gì là phép lạ, thần thông biến hóa hoặc khác biệt với chúng sinh. 
Con đường giải thoát không có cách biệt với thế gian.  Bởi thế đạo Phật có tứ chúng và Phật không có ngăn cản ta có một sinh hoạt đời sống và tạo một nếp sống tốt đẹp.  Cho nên đạo Phật không có chỉ trong chùa mà ở tất cả những Phật tử đang tạo dựng các đạo tràng.  “Tâm bình thế giới bình” là nghĩa như vậy.  Điều quan trọng là làm cho cái đạo tràng đó luôn ứng dụng và đây là chuyện khó làm.  Sự ứng dụng phải thường hằng khắp nơi không phải chỉ cho riêng chúng ta hoặc trong phạm vi của chúng ta mà thôi có nghĩa là ta không nên tự kỷ. 
Tu là ý thức thế nào là lỗi, thế nào là lợi cho mọi người.  Tu là tu đức đó mới là đạo Phật nhập thế.  Bồ Tát đại thừa tránh những thành kiến, hình thức mà chỉ chuyên làm lợi ích cho chúng sanh.

Tóm lại:
1.  Đạo Phật là con đường của trí tuệ:  không có mê mờ vì nhận thức những gì bên ngoài là do nhân và quả, do duyên. 
2.  Đạo Phật là con đường của giới, định, tuệ:  tu chứng và hạnh phúc ngay trong đời hiện tại này.
3.  Đạo Phật là con đường của nhân bản:  sống trong hài hòa, thương yêu, từ bi, tôn trọng mọi sự vật và sự sống và khéo ứng dụng phương tiện để làm lợi ích cho mọi người.


TRẢI TÂM VÀO ĐẠO


Khi tu thì chúng ta phải rõ phần lợi ích của cái công phu chúng ta đang nổ lực.  Cách trình bày giáo lý của Thầy đa phần là để Phật tử dù tu học bất cứ phương pháp nào cũng nhận thức được mức độ tiến bộ, đến được giai đoạn nào và cảm nhận chúng ta có một sự thay đổi dù nhỏ.  Nếu như chúng ta công phu một thời gian lâu mà không có sự thay đổi nào hết thì là chúng ta đứng tại chỗ không có tiến bộ.  Như vậy thì thà đứng một chỗ còn hơn là lui xụt nhưng trên mặt đạo đức, tu hành thì coi như là chúng ta thối quá mà nếu như sự thối quá này kéo dài thì tâm chúng ta trở thành chai cứng gọi là tử tâm.  Chính cái không biết là chúng ta đang đứng tại chỗ (không có tiến bộ) thì mới bị rơi vào tử tâm.  Đây là ý niệm ban đầu khi Phật tử học Phật phải biết cho nên cách trình bày của Thầy là như vậy.  Đôi khi cách Thầy trình bày nữa là nhìn một cái gì đó đảo ngược lại và chính cái chỗ đảo ngược này và với cái lối nhìn bất ngờ này làm cho chúng ta hiểu cái thật của chúng ta được rõ ràng hơn. 
Khi tu thì chúng ta phải cho chúng ta phạm lỗi lầm nhưng không phải là dễ dãi với chính chúng ta rồi cứ làm lỗi hoài.  Nếu như chúng ta nghiêm túc cho rằng không bao giờ chúng ta làm lỗi thì sẽ phạm vào cái che giấu sự thật. Khi che giấu thì cái pháp tu sẽ bị chậm lại không có tiến bộ được vì chúng ta cứ bám vào cái ăn năn đó hoài.  Trong cái tu hành thì chúng ta sẽ nhìn một phương diện nào đó để ta được lợi ích do tự tỉnh thức hơn là tự lừa dối.  Người tu Phật là phải đem cái tâm đến với đạo một cách chân thật thì lúc đó là trải tâm cũng là một lời nguyện của người học Phật đó.  Bất cứ một cái gì mà chúng ta có sự thao thức suy nghĩ và đem hết tâm chân thành vào đó (không hề có sự che giấu) thì ngay lúc đó ta vào đạo. 
Giải thoát tri kiến là người nào thấy thật tánh các pháp là thấy được đạo.  Kiến tánh thành Phật là thấy được tánh chúng ta thì thành Phật.  Trong vũ trụ tất cả hiện tượng đều do duyên khởi và người Phật tử phải ứng dụng như thế nào giữa khoảng khắc của không gian, thời gian và tâm lý tu tập để nhìn các thay đổi của không gian, thời gian, sự vật, tâm sinh lý và hoàn cảnh (khách quan và chủ quan) mà không bị giao động thì người đó thấy được các pháp và thấy được đạo.  Lúc nào chúng ta không bị kẹt trong ngôn từ và không nhìn các pháp qua nhiều lăng kính (vì sự vật sẽ bị biến dị không còn trực tiếp nhận thức) thì ta thấy được thật tánh các pháp. 
Trong Kinh, đức Phật cho thí dụ để chỉ chúng ta cách mà trải tâm vào đạo đó là nên tập tu hành “dễ thương như người vợ trẻ”.  Lúc ban đầu về nhà chồng thì người vợ trẻ là một người hoàn hảo đối với tất cả mọi người ngay cả đến người làm công trong nhà.  Qua một thời gian thì người vợ đó không còn dễ thương nữa, không còn đối xử tốt với mọi người nữa thì lúc đó người vợ đã biến dạng không còn như là lúc ban sơ mới về.  Kết luận thì Phật khuyên các vị tỳ kheo rằng: “Các vị hãy thường học tập và bảo vệ tâm chúng ta khi bắt đầu tu hành cũng như khi hành đạo thì làm thế nào để giữ tâm chúng ta dễ thương giống như người vợ trẻ”.  Nếu như ta giữ tâm như thế từ đầu cho đến lúc cuối thì đó là một sự chứng đắc. 
Trải tâm vào đạo là:
1.  Dù cho ta thay đổi, có tiến bộ trên con đường tu học, làm bao nhiêu phước đức đi nữa thì vẫn đối với các Thầy đều một lòng cung kính, đối với các bạn không tự hào, không coi thường thì đức Phật nói rằng người đó là người trải được cái tâm để vào đạo cho đến ngày viên mãn và thành tựu sự nghiệp chín chắn.  Có nghĩa là giữ trạng thái tâm cân bằng, trong sáng một thời gian dài không thay đổi. 
2.   Ngoài cái lòng thành tín thì ta phải có lòng nhiệt thành, khao khát học đạo.  Sự nhiệt thành, khao khát này phải rất là mãnh liệt thúc đẩy ta tu học giống như là người cần hơi thở để sống vậy.  Nhiệt tâm với mục đích duy nhất là vì đạo hy sinh.  Những thử thách chỉ là chuyện nhỏ thôi tại vì ta nên coi cái sự thiếu thốn của trí tuệ để đạt giác ngộ giống như là thiếu hơi thở vậy.  Khi nào tâm tư chúng ta tập trung với một sức mạnh như vậy thì được gọi là trải tâm vào đạo. 
Khi ta ở địa vị thấp thì không nên buồn, thất vọng dù cho bị khảo đảo và bị áp lực của xung quanh.  Ta nên nhìn đó là những thử thách phải vượt qua mà thôi.  Khi ta ở địa vị cao, quan trọng, huy hoàng rồi thì nên luôn luôn tự cảnh giác vì những gì muốn hại ta lại rất ngầm chứ không hiện rõ cho ta nhận thấy được dễ dàng.  Thêm nữa khi ta ở chỗ cao đó mà thất bại thì sẽ sa ngã rất là nặng nề. 
Những lỗi lầm chúng ta đã tạo, những gì người khác nghĩ về chúng ta không nói lên hết cái giá trị, cái chất lượng của tâm tư chúng ta.  Cái phần mà giữ được đức tánh, trung tín và tâm thức của chúng ta mới là quan trọng. 
Trong cuộc sống có khi sẽ có những vấn đề khó khăn ảnh hưởng đến tánh mạng, đến suy sụp gia đình.  Có những người hoặc tôn giáo trợ giúp chúng ta qua khỏi những lúc khốn cùng và chúng ta mang ơn họ, nhưng không phải vì mang ơn mà chúng ta liên kết với họ để làm những gì trái lương tâm, không bỏ đi cái tín tâm, không bỏ đi cái trung kiên nhất của người con Phật.  Ta phải luôn sẵn sàng từ chối những gì mà người thân hoặc ân nhân hoặc hoàn cảnh buộc ta làm chuyện mà trái lại với vị trí và nhân cách của chúng ta tại vì bản chất của ta là như vậy, niềm tin ta trải vào đạo đã như vậy rồi nên chẳng thể nào thay đổi.  Cái quan trọng nhất mà chúng ta phải giữ là tín tâm kiên cố của người Phật tử.  Tín tâm đó cũng là sơ tâm vào đạo và cũng đồng nghĩa với trải tâm để vào đạo. 
Trong cuộc đời chúng ta sống trong tương đối vì những gì chúng ta muốn đều có mặt trái của nó nhưng đến lúc mà chúng ta sống tùy duyên thì tất cả đều thuận.  Những khổ đau, phức tạp, phiền não là do tâm thức của chúng ta chọn lựa, phân biệt.  Khi tương đối, nghịch lý, mâu thuẫn không còn trong tâm chúng ta nữa và chúng ta thuận duyên, không lựa chọn nữa thì chúng ta sẽ hạnh phúc.  Chính cái tùy duyên đó mà chúng ta đạt được sở nguyện. 
Bình thường tâm của các vị Tổ là ngay từ cái sơ tâm cho đến lúc hoàn thành đạo nghiệp là tâm họ bằng thẳng “dễ thương như người vợ trẻ”.  Họ không cố uốn nắn tâm để làm ra vẻ cao siêu mà họ rất là bình thường.  Những quy định, máy móc, nguyên tắc thì biến dạng thành tự nhiên mà trong đạo gọi là sơ tâm.  Những ngôn ngữ thiền dùng để khai phá, để cảnh tỉnh chứ không phải là để cho tất cả ai đó muốn giải thích bằng nhiều lăng kính.  Càng giải thích thì sơ tâm không còn.  Tổ nói chuyện rất là bình thường và đôi khi còn có vẻ ngớ ngẩn rồi cái ngớ ngẩn đó người ta biến dạng thành đề tài công án và họ cho thành một phương pháp tu tập có tổ chức, có nghiên cứu nhưng thật ra chưa hẳn là như vậy.  Khi Tổ nói lên những câu ngớ ngẩn, ngây ngô thì người ta cho đó là một công án, một mệnh đề chìa khóa vào thiền.  Có thể khi Tổ nói những câu đó chỉ là trong một trạng thái tâm thức của Tổ hoàn toàn nhìn thế gian này với một cái nhìn đơn giản.  Thầy nghĩ rằng cái gần gủi nhất với Tổ, với Bồ Tát theo như đức Phật nói “một vị tỳ kheo, A La Hán sẽ giữ được sơ tâm của họ như một người vợ trẻ” đã là một công án, một vấn đề tu rồi. 
Như một người Phật tử từ ban sơ mới bắt đầu có tín tâm vào đạo nghe một bài Kinh hoặc đi ngang qua Phật cúi đầu thì trải qua một thời gian thì không ngó Phật bằng nửa con mắt thì điều đó đã cách nhau quá xa vì sơ tâm đã bị biến dạng.  Khi nào mà chúng ta đối xử với Thầy, với bạn, với người làm công, người xung quanh bằng cái tâm như lúc ban đầu thì đó là con đường của tiến bộ.  Cái phần quan trọng nhất của trải tâm vào đạo là phải có chân thật không màu mè, hình thức, không giới hạn để chúng ta không thêm một cái đầu trồng lên trên cái đầu chúng ta đang có (đầu lại thêm đầu).


TÌM LẠI CHÍNH MÌNH


Tu là cái quá trình tự làm chủ chính chúng ta, tư duy, kiểm soát ngôn ngữ và hoạt động của chúng ta mà không sống phóng túng, không tạo ác nghiệp, không để các pháp của dòng đời lôi cuốn thì lúc đó chúng ta không rời cảnh giới tu dù ở trong hoàn cảnh nào hoặc ở chỗ nào.  Phật luôn ở trong chánh định cả thân lẫn tâm. 
Thiền là trở lại chính chúng ta, là buông bỏ.  Thập mục ngưu đồ là một tác phẩm nổi tiếng của Thiền nói lên ý nghĩa và công dụng của Thiền. Thiền là buông xả, không chấp thủ cho nên nếu tìm hiểu cao siêu hơn thì đúng ra đến cái cuối cùng thì trâu và người đều quên và bước sau cùng là thỏng tay vào chợ.  Do đó thái độ của Thiền Sư khi vào chợ là không bị vướng mắc, chi phối bởi cảnh của chợ.  Khi nào ta không còn có khái niệm phân biệt, không thương, không ghét nữa thì ta đã thành tựu. 
Nói như vậy không có nghĩa là ta từ bỏ những gì mà ta tạo dựng trong cuộc đời này, khước từ những trách nhiệm của chúng ta để mong thành Phật ngay trong đời này.  Quá trình đắc đạo cần phải một thời gian dài mà ta không nên gấp rút quá vì ta còn gia đình, còn bổn phận, trách nhiệm mà ta phải chu toàn cho người thân được an lạc giống như chúng ta vậy.

Bức tranh chăn trâu trong hiện thực xã hội: 
* Thập mục ngưu đồ có 10 cảnh giới
1.     Tìm trâu
2.     Thấy dấu chân trâu
3.     Thấy toàn bộ con trâu
4.     Lấy được con trâu
5.     Chăn trâu
6.     Cởi trâu về nhà
7.     Quên trâu mà còn người
8.     Quên cả người lẫn trâu
9.     Trâu về cội nguồn
10.   Thỏng tay vào chợ

*  Bài giảng này nói về cảnh thứ nhất là tìm trâu có nghĩa là tìm lại cái tâm của chúng ta.
Bài thơ của Sư Y Sa:
“Đêm dài mỏi giấc chiêm bao,
Vài con én nhỏ bay vào hư vô,
Cuộc đi, cuộc ở, cuộc chờ
Hành nhân hiu hắt hững hờ nguồn cơn”

Cuộc đi là những gì đã qua trong cuộc đời của ta.  Cuộc ở là hiện tại và cuộc chờ là những gì mong đợi ở tương lai.  Phật thường nói không truy cầu quá khứ.  Trong Kinh Hiền Giả, Phật nói: “Quá khứ không truy tìm, tương lai không ước vọng, chỉ có hiện tại”.  Nhưng hiện tại đây không có nghĩa là hưởng thụ không biết đến tạo nghiệp mà là dùng tuệ quán trong mọi sinh hoạt. 
·       Người Phật tử nào mà xác định là chúng ta có duyên với đạo thì đó là tìm trâu.  Quan trọng là tìm ra nổi khổ của chúng ta là do đâu và tìm cách hóa giải nó chứ không phải là thoát ly khỏi cuộc sống này.  Con trâu nói lên cái quá trình cực khổ của mỗi người chúng ta trong sự việc gầy dựng đời sống.  Ta thấy được cái ý nghĩa cuộc sống là mỗi ngày ta làm việc và chỉ chấm dứt bao giờ chúng ta xuôi tay nằm xuống và chấm dứt một giấc mộng.  Tìm trâu là tìm hiểu tại sao chúng ta đang ở trong mộng và nhận thức rằng chúng ta ở trong mộng.  Có nghĩa là chúng ta nhận ra được cái hành vi đạo đức và bản năng tu tập để tìm lại cội nguồn của chúng ta.
·       Định nghĩa cuộc đời là giấc mộng có nghĩa là tìm trâu: 
*   Dù mộng dài hay ngắn cũng chỉ là một giấc mộng trong hơi thở. Vì thế ta không mê muội với giấc mộng mà luôn tỉnh thức. Khi nhìn lại cảnh xưa thì thấy rằng cuộc đời lúc lên, lúc xuống, lúc thành đạt, lúc chỉ là một hạt bụi nhỏ.
*   Phật tử xuất gia hay tại gia khi mà phát tâm học đạo thì chỉ muốn làm những viên đá lót đường cho người khác bước lên cho êm ả chứ không có gì là huy hoàng hay mầu nhiệm cả.  Đây là hạnh nguyện của Bồ Tát.
*   Cuộc sống dù vinh hoa đến đâu đi nữa cũng chỉ là phù du ảo mộng mà thôi.  Người học đạo là phải tìm cái chân thật của chúng ta.   
Tìm được chúng ta rồi thì lại còn phải tìm dấu chân trâu có nghĩa là hiểu Kinh theo đúng chánh pháp để có sự an lạc.  Muốn nghe đạo chỉ vì muốn tìm sự an lạc, ổn định trong tâm chứ không vì lợi, vì danh, vì phân biệt, chấp mắc.  Dù ở trong hoàn cảnh nào đi nữa ta nên hiểu rằng chúng ta sống trong giấc mộng và đây là tìm trâu. 
Sau đây là một bài thơ của người chết tặng cho người sống:
“Tôi đã là anh, anh sẽ là tôi
Một kiếp sống chỉ bằng hai tiếng khóc
Lần vào đời chúng ta khóc lên hoảng hốt
Lần ra đi thiên hạ khóc đưa chúng ta
Anh sẽ là tôi, tôi đã là anh
Ôi thơ mộng, vui, buồn và vinh nhục
Từng dọc ngang trên vạn nẽo đường đời
Phút cuối cùng trả gió với tàn hơi
Buông tất cả tay không còn một vật
Người sợ thối quẳng tôi vào lòng đất
Tiếc không sao giở nổi nắp quan tài
Phút cuối cùng tôi đại bại anh ơi
Sự nghiệp đổ như sóng va vào đá.”
Thầy làm tiếp 4 câu nữa:
“Nào cha mẹ nghĩa tình ôi cao cả
Nào vợ chồng ôi đạo nghĩa thiêng liêng
Chợt tỉnh ra thì ta cũng mê lầm
Giờ tỉnh mộng gọi lên lời tiếc nuối.”

Ta đang sống trong mộng nhưng đừng để nó làm chủ chúng ta và làm cho chúng ta đau khổ. Quan trọng nhất là tỉnh thức cũng có nghĩa là Thiền.  Đức Phật là người tỉnh thức.  Tỉnh thức đây để biết rằng chúng ta sống trong mộng và không để giấc mộng này khống chế cả cuộc đời chúng ta. 

TỊNH BẤT ĐỘNG ĐẠO 

Tịnh Bất Động Đạo là một đoạn trong Kinh Trung A Hàm.  Kinh này nói về quá trình của con người đi từ bậc phàm đến bậc Thánh toàn diện.  Trên con đường tu tập, chúng ta phải biết rõ giáo lý nhưng không có nghĩa là phải làm hết những gì chúng ta biết.  Người mà đi trên thế gian này mà không một lần quay đầu nhìn lại thì người đó là Thánh nhân.  Còn chúng ta không những quay đầu nhìn lại nhiều lần mà còn ngồi chơi, còn lững thững nữa nên chúng ta lẩn quẩn trong vòng luân hồi. 
Kinh này chỉ những cách thức để đạt đến Niết Bàn, con đường đạt đến tịnh tín bất động và nêu lên lý do vì sao có người tu mãi mà không đạt Niết Bàn, không đạt an lạc, hạnh phúc.  Niết Bàn đây là một sự tự chứng, một sự hóa giải, sự hạnh phúc của nội giới.  Chúng ta luôn thay đổi và hoàn cảnh làm con người ta thay đổi.  Tịnh Bất Động Đạo làm cho ta đạt sơ quả (Tu Đà Hoàn) trong 4 quả vị Thánh và người cư sĩ tại gia cũng có thể đạt được sơ quả này. Tịnh Bất Động Đạo là không thay đổi niềm tin của chúng ta đối với Phật pháp. 
Ngài A Nan nói rằng: Tôi nghe như vầy một thuở nọ tại Câu-Lưu-Xá, Phật nói với các Tỳ Kheo: Dục là vô thường, là hư ngụy, là giả dối.  Đã là pháp giả dối thì huyễn hóa, khi cuống, ngu si.  Dù là dục của đời này hay là dục của đời sau, dù là sắc của đời này hay là sắc của đời sau, tất cả các thứ ấy đều là cảnh giới của ma, là miếng mồi của ma.  Nhân những thứ ấy mà tâm sanh vô lượng pháp ác, bất thiện, tăng trưởng sân nhuế và đấu tranh nghĩa là làm chướng ngại cho sự tu học của Thánh đệ tử.” 
Đoạn này nói lên dục là huyễn, là giả cho nên là chướng ngại (là ma) trên con đường thành tựu Niết Bàn của chúng ta.  Chữ ma chỉ cho các sự lôi cuốn, sự hấp dẫn của dục mà chúng ta không thể cưỡng lại được, chúng ta bị ảnh hưởng và mất đi tự chủ.  Do đó các chướng ngại phá được tiến trình tu tập, tinh tấn của chúng ta.  Chúng ta có ngũ dục là tài (tiền), sắc, danh (tiếng tăm), thực (ăn) và thùy (ngủ).  Đây là 5 cảnh giới của ma.  Phật nói “những cái này là giả dối” nhưng chúng ta cho là thật và đó là cái mâu thuẫn nội tại lớn nhất của chúng ta. 
 Phật nói rằng: “Đa văn Thánh đệ tử nên quán như thế này:  Ta có thể chứng đắc đại tâm, thành tựu an trú, nhiếp phục thế gian, nhiếp kỳ tâm ấy.  Nếu ta chứng đắc đại tâm, thành tựu an trú, nhiếp phục thế gian, nhiếp kỳ tâm ấy thì tâm sẽ như thế không sanh vô lượng pháp ác bất thiện.” 
Nhiếp phục tâm là chúng ta kiểm soát được cái tâm của chúng ta để không chạy theo 5 dục, những ham muốn, những mâu thuẫn.  Như vậy chúng ta không tăng trưởng tham, sân, si thì không bị chướng ngại cho sự tu học.  Chúng ta hành, tu, tinh tấn như thế thì liền được ở nơi xứ sở của tâm thanh tịnh và sau đó nhập vào bất động.  Có nghĩa là chúng ta kiểm soát được tâm của chúng ta và không để cho bị lôi cuốn, không để cho hấp lực của thế giới ma (chướng ngại) làm cho mất đi tự chủ thì chúng ta bước vào cảnh giới thứ nhất gọi là Tịnh Tín Bất Động (niềm tin không thay đổi). 
Đức Phật nói rằng: “Do huệ mà có thắng giải thì về sau khi thân hoại mạng chung, nhân tâm ý đã sẵn có vị ấy chắc chắn đạt đến Bất Động”

Có nghĩa là do trí tuệ đã đạt được quả vị thì chúng ta chắc chắn đạt đến cảnh giới của bất động gọi là Bất Động Đạo, con đường không có thay đổi.  Cái cảnh giới Tịnh Bất Động Đạo này còn gọi là Tu Đà Hoàn (sơ quả hay Thánh quả thứ nhất).  Sau khi chết đi cái trí tuệ đạt quả vị này sẽ tiếp tục đưa chúng ta đi trên con đường đạo và không rơi trở lại sinh tử.

Những tiến trình để chúng ta có thể đạt Tịnh Bất Động Đạo là như sau: 
Thứ Nhất:  Phật khuyên chúng ta nên quán cái dục là vô thường, ham muốn và giả dối. Do dục mà ta lao vào ham muốn vì vậy Phật gọi dục là cảnh giới của ma và chính những ước muốn làm cho chúng ta khổ đau.
1.   Dục không có thật, là do các cảm xúc tạo thành. 
2.   Dục và ham muốn là những thứ tạm bợ mà chúng ta mượn nó trong một thời gian. 
3.   Dục không có cái lõi thật sự mà chỉ là ảo giác, ảo tưởng.
4.   Dục là huyễn hóa, vô thường.

Thứ Nhì:  Phật nói: “Đa văn Thánh đệ tử nên quán như thế này: nếu có sắc nào thì tất cả những sắc ấy đều do bốn đại tạo thành.  Bốn đại là pháp vô thường, là khổ và hoại diệt”.   
Ngay chỗ 4 đại này mà quán thì người đó đạt Tịnh Bất Động Đạo.  Khi quán tất cả sắc là duyên hợp chúng ta không bị khổ đau, không mất đi phần tự chủ.  Phật nói: “Nếu một người có thể phân tích được và thấy các pháp hình thành là do duyên hợp, khi duyên tan rã chúng ta cũng không vì điều đó mà biến đổi tâm lý của chúng ta thì người đó sẽ đạt được tịnh bất động đạo.”

 Thứ Ba:  Tất cả những gì thuộc về tưởng cũng là vô thường.  Người nào có thể quán như thế thì khi mạng chung nhân tâm ý sẵn có chắc chắn sẽ đạt đến bất động. 
 Thứ Tư:  Từ chỗ bất động tưởng chúng ta đạt đến tịnh vô sở hữu đạo (không có xứ sở).  Phật nói: “Nếu Tỳ Kheo nào đã thực hành vô ngã, vô ngã sở thì ngã sẽ không có, ngã sở không có thì ngã sẽ được xả bỏ hoàn toàn”.  Như vậy Tỳ Kheo ấy có đạt chứng cứu cánh Niết Bàn không?  Phật nói: “Điều đó không nhất định.”  Có nghĩa là ngay cả khi tu đến mức không còn sở hữu, không còn đối tượng, không còn chỗ để trú kể cả cái tưởng cũng không có nữa thì theo như Phật nói cũng chưa chắc đạt đến Niết Bàn. 
Ngài A Nan hỏi: “Tại sao vị Tỳ Kheo đó không đạt chứng Niết Bàn?” Phật nói:  “Nếu Tỳ Kheo nào thực hành vô ngã, vô ngã sở như thế mà Tỳ Kheo ấy hoan lạc trong sự xả bỏ ấy, đắm trước trong sự xả bỏ ấy, trú vào sự xả bỏ ấy thì Tỳ Kheo ấy thực hành như vậy chắc chắn không chứng đắc Niết Bàn.”  Cho nên người tu hành đạt từ chỗ sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền cho đến không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ cho tới phi tưởng, phi phi tưởng xứ mà còn cái ý niệm hoan lạc, chấp thủ là chứng đắc như vậy thì không đạt được Niết Bàn.  Có nghĩa là chứng mà thấy là có chứng, tu mà thấy là có pháp để tu thì ngay lúc đó chúng ta không vào được Niết Bàn.  Đây là thuộc về đại thừa Phật giáo.  Niết Bàn là không sinh, không diệt, do đó kể cả cái ý niệm chứng đắc cũng không có nữa.  Niết Bàn là an tịnh, là đạt được nội giới và hoàn toàn giải thoát, là tự tại, không dính mắc gì cả.  Nếu như chúng ta tu mà mong cầu đạt được cái gì đó thì chúng ta rơi vào chỗ chấp thủ và khổ đau.  Đức Phật nói: “Cảnh giới này không phải là Niết Bàn.”  
Trong hiện tại mà chúng ta không xây dựng hạnh phúc thì đừng bao giờ nghĩ đến ngày mai.  Phật nói: “Này A Nan, nếu còn sở hữu ở trong hành đó là hữu tưởng, vô tưởng xứ (còn cái có trong sự thực hành của chúng ta) thành Phật, thành Thánh, thành Bồ Tát thì ngay lúc đó chúng ta không được cảnh giới của Niết Bàn.”  Cũng vậy, khi chúng ta làm việc thiện hoặc ban bố ra một cái gì đó thì nên nghĩ rằng chính ta là người nên cám ơn những đối tượng mà ta giúp đỡ vì do có họ mà ta mới thực hành được những việc thiện.  Suy nghĩ được như vậy mới là cảnh giới tối thượng.  Nhưng nói như thế không phải là người tu hành không cần ghi ân thí chủ, người tu hành vẫn ghi ân chúng sanh vì trong cuộc đời những gì chúng ta làm đều có ảnh hưởng chung.  Phật nói: “Nếu một người tu hành đến chỗ tối thượng mà vẫn còn chấp mắc thì khổ đau vẫn còn.” 
Phật nói: “Người đệ tử, dù là dục của đời này, dù là dục của đời sau, dù là sắc của đời này, dù là sắc của đời sau, dù là dục tưởng của đời này, dù là dục tưởng của đời sau, kể cả các bất động tưởng, vô sở hữu xứ tưởng, vô tưởng tưởng, tất cả tưởng ấy đều là pháp vô thường, khổ và hoại diệt.  Do đó nếu hữu thân là sanh, già, bệnh, chết. Này A Nan, nếu có pháp này diệt trừ tất cả không để lưu dư, không để có trở ngại thì không có sanh, già, bệnh, chết.  Đó là bực Thánh quán như vậy.  Nếu có Vô Dư Niết Bàn thì gọi là cam lồ.  Vị nào quán như vậy, thấy như vậy chắc chắn đạt được tâm giải thoát.  Giải thoát khỏi dục lậu, giải thoát khỏi hữu lậu, giải thoát khỏi vô minh lậu, liền biết tất cả các giải thoát, biết như thật rằng sự sanh đã chấm dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.”   
Đó là người chứng A La Hán.  Trong 4 cảnh giới đã vượt qua và giải thoát dục lậu, giải thoát hữu lậu, giải thoát vô minh lậu, phạm hạnh đã vững, việc cần đã làm xong, không còn tái sanh nữa thì đó là con đường giải thoát rốt ráo của Niết Bàn.  Con đường này phải trải qua nhiều đời, nhiều kiếp có nghĩa là phải nhiều đời, nhiều kiếp hiền thiện thì mới là bậc Thánh nhưng cũng chưa phải là A La Hán quả. 
Đức Phật nói: “Thường phải thực tập thì chúng ta mới có thể bước từng đẳng cấp, từng cảnh giới đi đến và chúng ta thấy từng cảnh giới”.  Do đó mới thấy là sự tu hành không có dễ dàng.  Phật thường khuyên rằng chúng ta phải thường quán sát, thường tu hành, thường cảnh tỉnh. 
Phật nói: “Này A Nan, ta đã nói cho Thầy nghe về tịnh bất động đạo, về tịnh vô sở hữu xứ đạo, về tịnh vô tưởng đạo, về Vô Dư Niết Bàn, về sự giải thoát của bậc Thánh như bậc tôn sư tâm đại bi đoái tưởng, thương xót, mong cầu phước lợi và thiện ích, cầu an ổn và an lạc cho đệ tử.  Những điều ấy ta nay đã làm xong các Thầy phải tự làm lấy, hãy tự đi đến nơi rừng vắng, đến chỗ yên tĩnh, thanh nhàn, ngồi tĩnh tọa mà tư duy chớ có phóng dật, tinh cần và tinh tấn thêm đừng để về sau phải hối hận.  Đó là lời khuyến giáo của ta, đó là lời huấn thị của ta.” Đức Phật thuyết như vậy, tôn giả A Nan và các Tỳ Kheo khi nghe lời Đức Phật dạy xong hoan hỷ phụng hành. 
Nếu chúng ta muốn đi vào con đường học Phật thì chúng ta phải tinh cần, không ai có thể tu dùm chúng ta.  Những cái ham muốn ở thế gian mang tính hư dối nhưng hiểu như vậy không có nghĩa là chúng ta bỏ hết, chúng ta có thể khắc phục tâm và không để những ham muốn làm chủ chúng ta.  Ngay khi ta không chấp thủ thì đó là cảnh giới Niết Bàn.

 

Trong cuộc sống nẾu chúng ta thẤy nhỮng gì ta có là quá đẦy đỦ, có hẠnh phúc thì chúng ta bình an vỚi nhỮng cái đó và làm lỢi ích cho đỜi.  Còn nẾu như ta thẤy là ta luôn thiẾu thỐn thì chính nhỮng thiếu thỐn ta có hôm nay ngày mai ta cũng vẪn không có thỪa đưỢc.  NẾu bây giỜ chúng ta viên mãn, an Ổn, đầy đỦ, hẠnh phúc rỒi thì khi mẠng chung chúng ta vẪn đi vào con đưỜng bẤt đỘng. 

 

 

TỊNH TÍN BẤT ĐỘNG


Kiến thức của xã hội không quan trọng vì không thể giải tỏa những ưu tư trong tâm linh của con người.  Ở những nơi văn minh như nước Mỹ thì nhu cầu học Phật rất cao nhưng lại thiếu thốn những nhân sự có khả năng hoằng pháp hướng dẫn Phật tử tu học một cách tốt đẹp và chính xác để Phật tử có căn bản học Phật vững vàng.

Tịnh tín là một niềm tin thanh tịnh

Nếu niềm tin không thanh tịnh thì khi bất động sẽ trở thành cuồng tín và gây nên nhiều khổ đau cho chính ta và những người xung quanh. Niềm tin không những dành cho Phật tử tại gia mà còn cho cả Phật tử xuất gia. 
Làm thế nào để thẩm định vai trò người Phật tử để đạt tịnh tín bất động?
Người nào đạt tịnh tín bất động thì chắc chắn đi trên con đường Thánh quả và muôn đời sau sẽ không bao giờ rơi lại. 
Trong thời đức Phật có những vị đã đạt tịnh tín bất động và do đó đã chứng sơ quả vào dòng Thánh của Tu Đà Hoàn đạo.  Khi đức Phật giảng Tứ Diệu Đế cho 5 anh em Kiều Trần Như thì những vị đó đạt bước đầu tiên là tịnh tín bất động.  Phật nói rằng người nào thấy được lý duyên khởi (các pháp là tùy duyên) mà không có một sự cố định chấp thủ nào thì người đó thấy được đạo.  Thấy được đạo là phải hiểu rõ 4 chân lý:  khổ, tập, diệt và đạo. 
Có 5 loại nhãn:  nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn và Phật nhãn.  Khi đạt được tịnh tín bất động thì ta mở được pháp nhãn thanh tịnh.  Sau đó ta được vĩnh ly trần cấu vì đã thấy rõ Tứ Diệu Đế và không bị những bợn nhơ che lấp đi sự nhận thức chân chánh, thanh tịnh. 
Tịnh tín bất động của người Phật Tử hải ngoại và Phật Tử trong nước Việt Nam khác nhau như thế nào?
Phật Tử sống ngoài nước Việt Nam sau khi đã hoàn tất những nhu cầu và đầy đủ về vật chất thì họ khát khao về mặt tâm linh và kiến thức nhiều hơn Phật Tử trong nước Việt.  Khi ngôi Chùa mà Phật Tử hải ngoại hay lui tới không đáp ứng được nhu cầu tâm linh của họ thì họ sẽ không ngần ngại rời bỏ ngôi Chùa đó để đi kiếm chỗ khác có thể đáp ứng tốt đẹp hơn.  Trong khi Phật Tử tại nước Việt thì không bao giờ rời bỏ ngôi Chùa họ hay lui tới dù cho Chùa thiếu điều kiện hoặc phương tiện để đáp ứng nhu cầu. Khi mà ta không có một đáp ứng thỏa mãn cho sở đắc của ta thì niềm tin dễ bị lung lay.   
Pháp môn Tịnh Độ có 3 yếu tố:  tín, hạnh và nguyện.  Người học Phật thì chữ tín càng sâu sa hơn mà tín đây là trong cái sự thanh tịnh chứ không phải chỉ là một niềm tin chỉ để thỏa mãn nhu cầu tâm lý.  Nếu như tịnh tín không đạt được thì Tịnh Độ sẽ không thành. 
Làm thế nào để đi vào tịnh tín bất động và làm thế nào để hiểu về cảnh giới Tịnh Độ?
“Có đất (độ) thì không tịnh
Lời nói dùng làm gì
Phật đã dạy vô ngã
Thiền Sư kia là ai?”
 Nếu người Phật Tử không đạt tịnh tín mà vì có nhu cầu để thỏa mãn (sở cầu và dục vọng) thì cõi độ sẽ là bất tịnh.  Nói một cách khác là người ta cầu về Tịnh Độ chỉ vì họ quá chán nãn cõi Ta Bà khổ đau này thì cái sở cầu đó chỉ là do sự mong muốn trốn tránh cái khổ đau bất như ý mà thôi chứ không phải vì tịnh tín bất động.  Như vậy thì cõi Tịnh Độ đó sẽ trở thành bất tịnh.
Tịnh tín bất động chỉ có thể đạt được nếu ta hiểu lý duyên khởi.  Nếu không thì dù cho ta xuất gia ở trong Chùa lâu năm thì chỉ là vì nhu cầu của ăn, ở mà thôi.  Ta không đạt tịnh tín bất động mà chỉ có niềm tin để giải quyết cái nhu cầu của tham muốn, dục vọng hoặc một cái gì tốt đẹp hơn cái ta đang có. Đó là lý do tại sao những vị xuất gia lâu năm mà vẫn trở lại trần tục và những Phật Tử đi Chùa lâu năm mà vẫn thối chuyển Bồ Đề tâm. 
Thời đức Phật thì có ngài Cấp Cô Độc là vị cư sĩ đầu tiên đạt được tịnh tín bất động và chứng được quả Tu Đà Hoàn.  Ngài Cấp Cô Độc đã không màn danh lợi, tiền của, vật chất mà chỉ cốt hết lòng tu hành theo đức Phật.  Thời nay thì Phật tử xuất gia chỉ lo đáp ứng nhu cầu tiền bạc, vật chất, danh lợi, địa vị.  Còn Phật tử tại gia đi Chùa là để cầu cạnh mong đáp ứng nhu cầu cuộc sống của cá nhân.  Những cái đó không phải là tịnh tín bất động.
Nếu thấy cái giá trị của Phật, Pháp, Tăng để không bao giờ bị lay động bởi những cám dỗ của trần gian thì người đó chứng quả Tu Đà Hoàn.  Khi ta đến với đạo một cách chân thật, cầu đạo bằng tâm thành và hoàn toàn không đòi hỏi sự đáp ứng nhu cầu hoặc thỏa mãn dục vọng cá nhân nào cả thì lúc đó là tịnh tín bất động.  Do đạt được tịnh tín bất động ta sẽ không còn thối chuyển trong sự tu học. 
Khi ta muốn tu hành đạt được thanh tịnh thì với một tâm linh chân thành tìm con đường giác ngộ thoát khỏi tham, sân, si và cuối cùng thấy được pháp nhãn tịnh, ta mới có cơ may trong đời này chứng quả Tu Đà Hoàn. 
Chúng ta đến chùa học Phật không phải vì danh lợi hoặc nhu cầu nào đó mà là để thấy cuộc đời này là vô thường, khổ não và các pháp là tùy duyên để chúng ta đủ nghị lực mà đạt tịnh tín bất động ngay trong cuộc sống này. Thường thì người ta tìm tới chùa để mong thỏa mãn nhu cầu của tâm lý mà nếu như ngôi chùa đó không đáp ứng được thì họ sẵn sàng bỏ và đi chỗ khác.  Cái hiểu sai lầm là cho đó là tìm đạo chân chánh.  Người tìm đạo thì người chân đạo chánh, đạo tìm người thì đạo vì lợi và người vì danh. 
Chúng ta quy y Phật, Pháp, Tăng bằng tịnh tín, bằng chân thành mà không để ngũ dục làm cho ta mê mờ và tạo khổ đau cho chính chúng ta.  Hãy chọn con đường tu Phật bằng cách nổ lực của chính chúng ta mà không cầu cạnh, không chờ đợi bất cứ sự thỏa mãn nhu cầu cá nhân nào cả. Tịnh tín bất động là sẽ không bao giờ thay đổi niềm tin Tam Bảo của chúng ta dù cho trong đời này không tồn tại ngay cả đến thân mạng chúng ta.  Đây là ta đã và đang đi trên con đường tiến đến sơ quả Tu Đà Hoàn. 

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

[1] Tam giới: dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Ba giới này là vô thường vì còn nằm trong vòng sinh tử luân hồi.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét