Ngũ uẩn, bài học về diệt khổ (Phần 1)
(PGVN)
Giáo lý về Ngũ uẩn của Đức Phật là giáo lý nói về con người bởi vì Ngũ uẩn hay năm uẩn là năm thành phần cấu tạo của con người, của cái con người bằng xương bằng thịt thực sự
“Ngũ uẩn là gánh nặng,
Kẻ gánh nặng là người.
Mang gánh nặng ấy lên
Chính là khổ ở đời.
Còn đặt gánh nặng xuống
Chính là lạc ở đời…”
Lời Phật dạy
LỜI NÓI ĐẦU
Ngay trong câu mở đầu của Bát Nhã Tâm Kinh đã nói đến Ngũ uẩn trong câu:“Quán Tự Tại Bồ tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách ”. Vậy Ngũ uẩn là gì ?
Ngũ uẩn là một giáo lý rất quan trọng mà Đức Phật đã giảng dạy tại vườn Lộc Uyển ngay từ những ngày đầu tiên trong quá trình hoằng pháp của Người, cùng với các bài giảng về Tứ diệu đế và Mười hai nhân duyên. Do vậy đã là phật tử thì không thể nào bỏ qua được việc am hiểu giáo lý Ngũ uẩn.
Tài liệu này cố gắng tránh những từ ngữ Phật học khó hiểu và những vấn đề mang tính triết học, mà chú trọng giới thiệu những nét cơ bản nhất để các Phật tử dễ dàng tìm hiểu và nhận thức một cách nhẹ nhàng về một trong những giáo lý cơ bản của đức Phật giảng dạy, nhằm giúp cho con người biết để tự lo hóa giải hết những ô trược, phiền muộn trong cuộc sống và biết cách diệt được mọi nỗi khổ trên trần thế để có an lạc, hạnh phúc ngay trong cái thế giới có sinh có diệt này. Tuy nhiên, phương pháp trình bày có những vấn đề cần phải lặp đi lặp lại nhiều lần để cho quá trình nhận biết được dễ dàng đối với những độc giả mới tiếp xúc lần đầu với giáo lý Ngũ uẩn. Mong được thông cảm.
Vì trình độ còn hạn hẹp, nhưng với tâm nguyện nhiệt thành muốn đóng góp phần nào vào công việc hoằng dương Phật pháp, nên rất mong chư vị thiện trí thức, các phật tử mười phương và quý vị độc giả vui lòng đón nhận món quà tặng nhỏ mọn này và lượng tình chỉ dẫn những điều còn sai sót.
Tác giả kính ghi
PHẠM ĐÌNH NHÂN
Pháp danh Chánh Tuệ Định
I. MỞ ĐẦU
Ta biết rằng ngay trong thời thuyết pháp đầu tiên của Đức Thế Tôn tại vườn Lộc Uyển, Đức Phật đã giảng giải về Tứ thánh đế, Ngũ uẩn và Mười hai nhân duyên.
Từ đó, giáo lý về Tứ thánh đế, Mười hai nhân duyên cùng Ngũ uẩn đồng quyện với các giáo lý Duyên Khởi, Vô thường, Vô Ngã, Tính không, Bát nhã v.v…khi ẩn, khi hiện suốt mọi thời thuyết pháp của Đức Thế Tôn, kể từ vườn Lộc Uyển, các tịnh xá thuộc thành Xá Vệ đến núi Linh Thứu và lan khắp các lưu vực sông Hằng.
Trong Tứ diệu đế, Đức Phật đã nói về tám nỗi khổ. Trong tám nỗi khổ đó, ngoài bảy nỗi khổ gồm sinh khổ, bệnh khổ, lão khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, cầu bất đắc khổ, oán tắng hội khổ, còn có nỗi khổ thứ tám là ngũ uẩn xí thạnh khổ (Kinh Tương Ưng II, phẩm Chuyển pháp luân). Nỗi khổ thứ tám đó cho ta biết nếu cứ chấp vào ngũ uẩn sẽ gây ra đau khổ. Vậy ngũ uẩn là gì và tầm quan trọng của giáo lý Ngũ Uẩn như thế nào ?
1. Định nghĩa ngũ uẩn là gì ?
Ngũ uẩn hay năm uẩn là năm yếu tố gồm có sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn. Năm yếu tố đó nương tựa vào nhau để tạo thành con người gồm: thân thể (yếu tố vật lý) gọi là sắc và các yếu tố về tinh thần, tâm lý gọi chung là danh như thọ (cảm giác thọ nhận), tưởng (tri giác, ấn tượng), hành (hành xử tạo nghiệp) và thức (ý thức, sự nhận biết).
Ngũ uẩn tiếng Phạn là Panca Skandhah, Trung Hoa dịch ra nhiều nghĩa khác nhau. Có thể kể ra ba loại chính :
Thời kỳ đầu, vào những năm đầu của thế kỷ thứ III trước Công nguyên, Ngũ uẩn (Panca Skandhah) được dịch theo âm tiếng Phạn, phiên âm chữ Skandhah ra chữ Hán là Kiền độ hay Tắc kiền độ.
Thời kỳ thứ 2 vào khoảng thế kỷ thứ V sau Công nguyên, Ngài Cưu Ma La Thập (344 – 413), từ Ấn Độ sang Trung Hoa vào năm 402 đã dịch theo ý nghĩa chữ Phạn Panca Skandhah là Ngũ ấm, với ý nghĩa ấm là phủ khuất, ngăn che, làm cho tối đi, mờ đi, làm cho người ta không biết được thực tính bình đẳng của sự vật,
Thời kỳ thứ 3 vào những năm của thế kỷ thứ VII, Ngài Tam tạng Pháp sư đời Nhà Đường là Huyền Trang (595 - 664) dịch chữ Phạn Panca Skandhah sang chữ Hán theo nghĩa thực chất là Ngũ uẩn. Uẩn (Skandha) nghĩa là một sự tập hợp, sự tích tụ, một nhóm họp theo từng loại với cùng những tính chất giống nhau, nên gọi là nhóm, là tổ hợp, là tụ tập, là chúng. Vì vậy Ngũ uẩn tức năm uẩn còn được gọi là năm ấm, năm chúng, năm nhóm, năm tụ. Nói một cách tổng quát năm uẩn là năm nhóm yếu tố hay năm tổ hợp biểu thị sự cấu tạo toàn bộ thân và tâm của con người.
Ngày nay trong các kinh sách, tài liệu về giáo lý Phật giáo, người ta thường dùng ngũ uẩn, năm uẩn, năm nhóm, năm tụ đều cùng một nghĩa.
![]() |
2. Vì sao Đức Phật dạy về Ngũ uẩn ?
Giáo lý Ngũ uẩn có một tầm quan trọng trong đời sống người học Phật. Một khi con người cứ bám víu vào năm uẩn, vào sắc, thọ, tưởng, hành, thức, coi đó là ta, là của ta, là tự ngã của ta, thì sẽ xuất hiện sự đau khổ. Ý niệm về "thân thể tôi", "tình cảm tôi", "tư tưởng tôi", "tâm tư tôi", "nhận thức của tôi"... hình thành một cái tôi ham muốn, vị kỷ, từ đó mọi khổ đau phát sinh. Mọi khổ đau, lo lắng, sợ hãi, thất vọng, điên cuồng đều gắn liền với ý niệm về "cái tôi" và "cái của tôi" ấy.
Cho nên, Đức Phật đã chỉ rõ : "Khi nào người Phật tử không thấy rõ nguồn gốc sinh tử khổ đau là do sự ham muốn tham lam cái thân năm uẩn thì người đó chưa hiểu được Phật pháp".
Ngũ uẩn thường ngăn che trí tuệ sẵn có trong con người như những đám mây che lấp ánh sáng mặt trời. Con người do những dục vọng luôn nảy sinh làm cho mê mờ, không nhận thấy được cái ta chân thật, cái Phật tính tiềm ẩn trong mỗi con người. Con người thường hay bám vào cái ta, cái của ta, đuổi theo dục vọng lại càng bị trói chặt trong cuộc sống tội lỗi, khổ đau. Do đó, nếu không thấy rõ và không nắm vững giáo lý ngũ uẩn thì chính ngũ uẩn làm cho con người luôn luôn đau khổ, trở thành gánh nặng của con người.
Vì vậy, trong Kinh Tương Ưng Bộ[1], phẩm Gánh nặng có một bài kệ nói rõ điều này:
Ngũ uẩn là gánh nặng,Kẻ gánh nặng là người.
Mang gánh nặng ấy lênChính là khổ ở đời.
Còn đặt gánh nặng xuốngChính là lạc ở đời .
Đặt gánh nặng xuống xongKhông mang thêm gánh khác.
Nếu nhổ khát ái lênTận cùng đến gốc rễ,Không còn đói và khátĐược giải thoát tịnh lạc
Cũng trong Phẩm Gánh nặng của bộ kinh này, Đức Phật đã giảng giải gánh nặng chính là sự bám giữ các thủ uẩn : cái ta, cái của ta mà gây ra đau khổ. Vì thế, chínhngũ uẩn là gánh nặng mà kẻ gánh cái gánh nặng ấy chính là con người có danh tính, có địa vị chức tước. Việc mang gánh nặng lên chính là mang lòng tham ái, níu kéo, chấp thủ cái ta, cái của ta. Việc đặt gánh nặng xuống tức là sự rời bỏ lòng tham, đoạn diệt khát ái một cách hoàn toàn, là sự từ bỏ, sự xả ly mọi phiền muộn chấp trước, sự giải thoát đi đến giác ngộ.
Từ góc độ quan sát thân ngũ uẩn là gánh nặng đeo đẳng làm cho chúng ta khổ, một số người chủ trương thoát ly thân ngũ uẩn, đoạn diệt ý tưởng, xa lìa cảm thọ, trốn tránh cái khổ để tìm đến Niết bàn an vui. Đây là nhận thức sai lầm lớn không thể chấp nhận được.
Vì vậy, khi đã là Phật tử, việc học Phật cần phải nắm vững giáo lý về Ngũ uẩn. Con người ta không ai thoát khỏi những nỗi đau, buồn giận, những bế tắc về nội tâm, những trắc trở trong cuộc sống. Trong những trường hợp ấy, người có trí tuệ thường ứng dụng những điều giáo lý mà Đức Phật đã dạy trong Tứ diệu đế, Mười hai nhân duyên, Ngũ uẩn để cân bằng lại đời sống nội tâm của mình. Ngay đối với Đức Phật, khi còn tại thế, có lần Người bị lâm bệnh nặng, cũng đã phải nhờ đệ tử là Tôn giả Ca Diếp giảng lại bài giảng của chính Đức Phật đã giảng và sau khi nghe xong bài giảng đó thì Đức Phật trở lại mạnh khỏe bình thường.
Tóm lại những ai muốn học hỏi, nghiên cứu và tu tập theo chánh pháp, không thể không biết đến giáo lý Ngũ uẩn. Ðó là một trong những giáo lý vô cùng quan trọng và phải được hiểu rõ một cách tường tận, chính xác để có thể tu tập rốt ráo cho có hiệu quả. Và cũng chính vì vậy mà Đức Phật đã giảng giải rất rõ giáo lýNgũ Uẩn ngay trong những bài học đầu tiên trên bước đường hoằng pháp của Người.
3. Đối tượng nghiên cứu của Ngũ Uẩn :
Giáo lý về Ngũ uẩn của Đức Phật là giáo lý nói về con người bởi vì Ngũ uẩn hay năm uẩn là năm thành phần cấu tạo của con người, của cái con người bằng xương bằng thịt thực sự (sẽ trình bày rõ trong phần sau). Do vậy, Phật tử hay bất kỳ ai muốn biết quan niệm về con người như thế nào trong giáo lý của nhà Phật, không thể không nghiên cứu đến Ngũ uẩn. Giáo lý Ngũ uẩn không phải là một giáo lý chung chung về một đối tượng tổng quát trong thế giới vũ trụ này mà chính là giáo lý về con người thực thụ. Đối tượng nghiên cứu của giáo lý này là con người.Nói đúng ra, Phật tử hay bất kỳ ai muốn tìm hiểu về con người thì phải biết đến cả giáo lý Mười hai nhân duyên và Ngũ uẩn. Giáo lý Mười hai nhân duyên giúp ta nghiên cứu tìm hiểu một cách tổng quát về sự hình thành và cơ cấu con người lưu chuyển theo thời gian và nghiệp lực cùng với luật nhân quả chi phối con người, chi phối cuộc sống của các kiếp người. Còn Ngũ uẩn là giáo lý giúp ta tìm hiểu bản chất thực của con người để diệt trừ đau khổ.
Vậy con người là gì và từ đâu có. Đó là một vấn đề mà khoa học và nhân loại từ bao đời nay tìm cách lý giải bằng rất nhiều giả thuyết mà cho đến nay vẫn còn là một vấn đề cần được nghiên cứu. Nhưng ngay từ khi đức Phật còn tại thế, do đã đắc Vô thượng, Chánh đẳng, Chánh giác, với khả năng lục tận thông, giác ngộ hoàn toàn, Đức Phật đã giải đáp về nguồn gốc con người, nguồn gốc vũ trụ và quá trình hình thành con người và vũ trụ trong một bản kinh, đó là kinh Khởi thế nhân bản. Nhưng điều đó không thuộc phạm trù của tài liệu này.
Tóm lại, đối tượng nói đến trong giáo lý Ngũ uẩn của Đức Phật là con người trên trần thế. Vì thế là phật tử, cần phải tìm hiểu và học giáo lý này để mong được “đặt gánh nặng xuống”, để tiến tới đoạn trừ tham ái, xả bỏ chấp thủ, phiền não, tiến tới diệt trừ mọi khổ đau, đạt tới cuộc sống an lạc, thanh tịnh tiến tới giải thoát ngay trong cõi đời này.
còn nữa...
Trích tập sách "Ngũ uẩn, bài học về diệt khổ" của tác giả Phạm Đình Nhân
Chú thích: Nội dung do tác giả gửi tới phatgiao.org.vn
Ngũ uẩn, bài học về diệt khổ (Phần 2)
(PGVN)
Sắc uẩn nói chung gồm bốn thành tố là: đất, nước, gió, lửa. Đối với con người, bốn chất cơ bản đó tạo thành các bộ phận cơ thể của thân xác mà nhà Phật gọi là thân tứ đại gồm địa đại, thủy đại, phong đại và hỏa đại.
II. NỘI DUNG CỦA NGŨ UẨN
1. Các thành phần của Ngũ uẩn :
Ta biết rằng theo tinh thần Phật giáo, con người được sinh ra là do sự hòa hợp của nhiều nhân duyên, của tất cả những nghiệp duyên có từ trong những đời quá khứ từ trước mà tạo ra trong kiếp này. Do vậy thân con người là sự kết hợp, tạo thành của ngũ uẩn biểu thị thành hai phần: phần thân xác (gọi là sắc) và phần tâm linh(gọi là danh), nên được gọi là danh sắc (danh sắc là một mắt xích trong 12 mắt xích, nói trong giáo lý Mười hai nhân duyên). Hay nói khác đi, con người phải có đầy đủ 2 phần danh và sắc gồm thân thể (sắc) và phần tinh thần hay tâm linh (danh), không thể thiếu một phần nào cả.
Phần sắc tức là phần vật chất, là phần thân xác của con người, có hình dáng vật lý, gọi là sắc uẩn. Phần danh tức là phần tinh thần hay tâm linh không có hình sắc bao gồm thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn. Vậy ngũ uẩn là một danh từ dùng chỉ cho con người được biểu thị bằng năm thành phần là: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Đó là quan niệm của Phật giáo về con người : Con người phải có đầy đủ cả vật chất và tinh thần hay còn gọi là tâm linh, tâm lý, tâm thức, nghĩa là phải có đầy đủ năm uẩn xếp theo thứ tự : sắc, thọ, tưởng, hành, thức[1]. Nói một cách ngắn gọn Ngũ uẩn chỉ cho con người bao gồm Sắc là thể xác, Thọ là cảm giác, tình cảm, Tưởng là tri giác, lý trí, Hành là ý chí quyết đinh, Thức là nhận thức.
Ngoài ra, khi tìm hiểu về Ngũ uẩn, không phải chỉ biết nội dung của uẩn mà cần phải biết thế nào là thủ uẩn. Thủ tức là nắm giữ, vì vậy khi nói đến cái Tôi thì bao giờ cũng có cái Của Tôi. Uẩn là chỉ cái Tôi còn thủ uẩn chỉ cho cái Của Tôi. Chínhuẩn và thủ uẩn là nguồn gốc làm cho con người tự tạo ra cho mình những khổ đau phiền muộn do tham ái và cũng vì vậy uẩn và thủ uẩn là nguồn gốc tạo ra những nghiệp lực dẫn dắt con người đời đời kiếp kiếp.
2. Nội dung của từng uẩn:
2.1. Sắc uẩn:
Sắc uẩn là sự kết tụ, sự chứa chất của vật chất để tạo ra những hình tướng như thân thể và cảnh sắc hay cảnh vật. Vì vậy tất cả mọi sự vật, cảnh sắc trong thế giới, vũ trụ đều gọi là sắc; từ các tinh tú trong vũ trụ, đến núi non, sông ngòi, cây cối, nhà cửa (mà các vị tổ xưa thường gọi là sơn hà đại địa), cho đến mọi đồ đạc, tất cả có hình sắc đều gọi là sắc. Riêng đối với con người, sắc chính là phần thân thể bằng xương bằng thịt.
Sắc uẩn nói chung gồm bốn thành tố là: đất, nước, gió, lửa. Đối với con người, bốn chất cơ bản đó tạo thành các bộ phận cơ thể của thân xác mà nhà Phật gọi là thân tứ đại gồm địa đại, thủy đại, phong đại và hỏa đại. Còn khoa học ngày nay gọi tứ đại ấy là bốn trạng thái hay bốn thể chất. Đó là thể rắn, thể lỏng, thể khí và thể nhiệt. Phần sắc trong con người thể hiện dưới bốn thành tố đó là :
Đất hay chất rắn (hay địa đại) chính là các bộ phận thân thể của con người như tóc, da, thịt, xương, tim, gan, phổi, ruột v.v…
Nước là chất lỏng (hay thủy đại) chính là máu, nước mắt, nước tiểu, đờm, nhớt, mồ hôi các loại dịch trong con người v.v…
Gió là chất khí hay chất hơi (phong đại) là hơi thở, chất khí vận hành trong người v.v…
Lửa là chất nóng hay chất nhiệt (hỏa đại) tạo thành sự nóng, ấm áp của cơ thể còn được gọi là thân nhiệt.
Tóm lại, phần cơ thể vật chất của con người gồm có bốn thành tố này (bốn đại) hợp lại tạo thành, nên nhà Phật thường gọi con người là “cái thân bốn đại”.
Nhưng những thành phần sắc uẩn trong giáo lý Ngũ uẩn này được biểu hiện cụ thể bằng các giác quan của thân con người mà nhà Phật gọi là các căn. Đó là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý (tức nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn và ý căn). Tuy nhiên, phần sắc tức là phần thân thể con người cũng có hai phần là sắc thân tứ đại (đất, nước, gió, lửa) trong đó là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, còn gọi là phù trần căn (các căn bề nổi phía ngoài) và phần tịnh sắc căn tức là các giây thần kinh. Các giây thần kinh này chính là phần ý căn của con người và vì vậy thường gọi là sáu căn tương ứng với sáu trần.
Vậy tại sao lại chỉ lấy các giác quan mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý gọi là các căn trong sắc uẩn mà không lấy các cơ quan khác của con người như tim, phổi, thận, gan, ruột v.v…làm sắc uẩn để nghiên cứu ? Bởi vì các giác quan mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý mới là các cơ quan của con người tiếp xúc với thế giới bên ngoài, tiếp xúc với các cảnh trần bên ngoài. Chính các cảnh trần bên ngoài là đối tượng tiếp xúc của các căn và gọi là các trần. Cụ thể : đối tượng tiếp xúc của mắt (nhãn căn) là các cảnh sắc bên ngoài mà mắt nhìn thấy nên gọi là sắc trần. Đối tượng tiếp xúc của tai (nhĩ căn) là tiếng động, âm thanh mà tai nghe thấy nên gọi là thanh trần. Đối tượng tiếp xúc của mũi (tỷ căn) là mùi, hương mà mũi ngửi thấy nên gọi là hương trần. Đối tượng tiếp xúc của lưỡi (thiệt căn) là mùi vị mà lưỡi nếm được nên gọi là vị trần. Đối tượng tiếp xúc của thân là những gì mà thân tiếp xúc được nên gọi là xúc trần. Ngoài ra đối tượng của ý (ý căn) là cảnh biết của ý thức chỉ được nhận biết từ trong nội tâm nên gọi là pháp trần.
Tóm lại trong sắc uẩn có các căn và các trần tương ứng. Các căn gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý tương ứng với sáu trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Trong đó :
Sắc trần : cảnh sắc mà mắt nhìn thấy bao gồm tất cả những vật thể có hình dạng từ cái to nhất đến cái nhỏ nhất.
Thanh trần: âm thanh mà tai nghe được gồm tiếng nói, tiếng cười, tiếng khóc v.v…của con người ; tiếng động của trời đất vũ trụ như tiếng sấm, tiếng gió rít, tiếng sóng vỗ v.v… do thiên nhiên gây ra ; âm thanh của các vật thể có tác động của con người như tiếng chuông, tiếng trống, tiếng mõ v.v…do con người tác động mới có.
Hương trần: mùi do mũi ngửi được bao gồm mùi thơm, hôi thối v.v…do con người và thiên nhiên gây ra.
Vị trần: mùi vị do lưỡi nếm được như cay, đắng, ngọt, bùi v.v…
Xúc trần: cảm xúc do thân biết được như đói, no, khát, nóng, lạnh, mềm, rắn, ngắn, dài, to, nhỏ v.v…
Pháp trần: cảnh biết do ý thức nhận được, nghĩa là tất cả những gì là đối tượng của ý, của nhận thức đều gọi là pháp.
Trong đó sáu trần gồm sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là đối tượng của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Các căn và trần tạo thành sắc uẩn.
![]() |
2.2. Thọ uẩn :
Thọ uẩn là sự thụ nhận sáu trần bởi sáu căn. Sự thụ nhận hay cảm nhận đó có được do từng căn trong sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) tiếp xúc tương ứng với từng trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp). Cụ thể nhãn căn thụ nhận sắc trần, nhĩ căn thụ nhận thanh trần, tỷ căn thụ nhận hương trần, thiệt căn thụ nhận vị trần, thân căn thụ nhận xúc trần, ý căn thụ nhận pháp trần. Có thể lấy ví dụ sau đây cho rõ, như :
- Khi mắt nhìn một bông hoa đẹp thì cảm nhận được màu sắc tươi sáng, vẻ thanh lịch của bông hoa đó làm cho ta vui vẻ, khoan khoái. Khi nhìn một dòng sông rộng, nước chảy xiết, đỏ màu phủ sa làm cho ta thấy lo ngại khi phải bơi qua vì sông rộng và nước chảy xiết. Khi nhìn thấy một tà áo dài tha thướt làm cho ta cảm nhận thấy cái duyên dáng, cái thanh tao của tà áo hay của người mặc áo. Vậy do mắt (nhãn căn) tiếp xúc với cảnh vật (sắc trần) mới có thọ uẩn.
- Hoặc như khi tai nghe một bài thuyết trình của một diễn giả danh tiếng thì cảm nhận được cái hay, cái ý nghĩa của từng lời nói làm cho ta xúc động, ta vui hay thích. Nhưng nếu tai nghe những lời khiếm nhã của một kẻ nào đó thì lòng cảm thấy buồn bực. Tai nghe một bản nhạc hay thì cảm nhận được cái vui, cái buồn của bản nhạc đó khiến cho tâm hồn ta rung động. Vậy do tai (nhĩ căn) tiếp xúc với âm thanh (thanh trần) mới có thọ uẩn.
- Khi ta bước vào chính điện cùa một ngôi chùa, mũi ta ngửi thấy mùi hương bay thơm một cách nhẹ nhàng thoang thoảng ta cảm nhận thấy tâm hồn thư thái thanh tịnh, hoặc khi mũi ta ngửi những làn hương thơm ngào ngạt khi ta đứng trước một vườn hoa, ta cảm thấy vui, nhưng khi ta đi qua một bãi rác bốc mùi hôi thối thì ta cảm thấy khó chịu. Vậy do mũi (tỷ căn) tiếp xúc với mùi hương (hương trần) mới có thọ uẩn.
- Khi lưỡi ta nếm được món ăn ngon, ta cảm nhận được vị thơm ngon làm cho ta vui thích, sung sướng, hoặc khi lưỡi ta đụng phải vị cay của ớt thì ta cảm nhận vị cay đó làm ta khó chịu. Vậy do lưỡi (thiệt căn) tiếp xúc với mùi vị (vị trần) mới sinh ra thọ uẩn.
- Khi tay nhận món quà của người trao tặng thì cảm thấy vui. Khi tay ta sờ vào một chiếc áo lông ta cảm thấy sự mềm dịu làm ta vui thích hoặc tay ta sờ phải cái gai thì cảm nhận thấy đau. Vậy do tay (thân căn) tiếp xúc với vật thể (xúc trần) mới có thọ uẩn v.v…
Tất cả những cái đó là sự thụ nhận tức là thọ uẩn. Bản thân các căn riêng biệt (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) mà không có sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) thì không thể có thọ nhận được, tức không có thọ uẩn. Như vậy thọ có được là do có sự tiếp xúc giữa các căn và các trần tương ứng.
Trong Phật giáo, thọ được chia làm ba loại: lạc thọ, khổ thọ và vô ký thọ.
- Lạc thọ là sự cảm nhận được niềm vui, cái sung sướng ở thế gian do sự tiếp xúc mà ra.
- Khổ thọ là cảm nhận nỗi buồn, sự đau khổ hay bất hạnh do cuộc đời đưa đến.
- Xả thọ hay vô ký thọ là không vui cũng chẳng buồn. Lúc nào cũng trước sau như một. Thí dụ mắt thấy đối tượng nào đó mà lòng vẫn dửng dưng, chẳng vui mà cũng chẳng buồn.
2.3. Tưởng uẩn:
Tưởng uẩn là sự nhận biết các tri giác như màu sắc, âm thanh, mùi vị…Sau khi lục căn tiếp xúc với lục trần (tức khi đã có thọ uẩn) để thấy được các cảnh khổ vui, xấu đẹp và sau đó bắt đầu so sánh phân biệt. Đó chính là giai đoạn tưởng uẩn. Nếu không có sự so sánh, phân biệt của tưởng uẩn thì tất cả các pháp đều bình đẳng như nhau. Vì thế cần phải có tưởng uẩn mới phân biệt tất cả các sự vật hiện tượng. Đó là tác dụng của tưởng uẩn.
Tưởng uẩn là những ấn tượng tri giác, những ấn tượng đó được sinh ra là do các hình ảnh, cảnh sắc, do âm thanh, ngôn từ, khái niệm v.v… được lưu giữ lại trong tâm hay óc con người[2]. Ví dụ khi người ta nhìn một cành hoa hồng, cành hoa đó, màu sắc đó là sự thọ nhận tức thọ uẩn. Nhưng để phân biệt so sánh với các loại hoa hồng khác hay với các loài hoa khác thì phải cần đến tưởng uẩn, nó được lưu lại trong tâm. Một ví dụ khác, người ta thường biết có nhiều loại cầu qua sông, nhưng chưa biết thế nào là chiếc cầu dây văng, khi đã một lần thấy cầu dây văng thì để lại ấn tượng trong đầu. Khi ở một nơi nào đó sẽ xây dựng một chiếc cầu dây văng, dù nó chưa được xây dựng nhưng ta đã tưởng ra được chiếc cầu dây văng sẽ xây dựng như thế nào. Một ví dụ khác : ban đêm khi ta nhìn ra cánh đồng nghĩa địa thấy những đốm ánh sáng do chất lân tinh từ trong thể xác dưới mồ bốc lên, gặp không khí trong đêm cháy sáng thì ta tưởng là ma. Đó là tưởng, nó là hình ảnh trong tâm, chứ không phải là tư tưởng mà ta thường gọi.
2.4. Hành uẩn:
Hành có nghĩa là tạo tác, là thực hiện bằng lời nói, bằng việc làm, bằng suy nghĩ điều gì đó, tức là thực hiện tạo tác bằng thân, khẩu, ý, tất cả đều gọi là Hành
Hành uẩn là những hoạt động tâm lý sau khi có tưởng uẩn. Sau khi so sánh phân biệt (qua giai đoạn tưởng uẩn), thì ý niệm (tư duy, suy nghĩ) tức là tưởng uẩn bắt đầu thực hiện ý đồ nên đã sai khiến thân (chân tay) và khẩu (miệng nói) thực hành những gì ý muốn. Việc thực hiện này chính là hành trong giai đoạn hành uẩn. Vì thế ý nghiệp là nhân, còn thân nghiệp và khẩu nghiệp là kết quả của nó. Vậy hành uẩn là việc thực hiện những hành động tạo tác gây ra các nghiệp thiện và ác trên đời.
2.5. Thức uẩn:
Thức tức là sự nhận thức, nhận biết được cái gì đó. Vì vậy, thức uẩn là cái được hình thành do sáu căn tiếp xúc với sáu trần mà tạo nên. Đó là sáu thức. Chính sáu thức là cái giúp cho người ta phân biệt được màu sắc, âm thanh, mùi vị… Ngoài ra, thức uẩn còn chính là cái kho chứa những ý thức, tư duy, suy nghĩ, kỷ niệm, các chủng tử, ký ức...giúp cho việc thực hành hành uẩn, tạo ra nghiệp lực.
Thức bao gồm tám loại khác nhau gồm năm thức đầu tiên, còn gọi là Tiền ngũ thức. Đó là nhãn thức (cái hiểu biết của mắt), nhĩ thức (cái biết của tai), tỷ thức (cái biết của mũi), thiệt thức (cái biết của lưỡi), thân thức (cái biết của thân), rồi đến Ý thức (cái biết của ý là thức thứ sáu), Mạc na thức (thức thứ bảy) và A lại gia thức(thức thứ tám) hay còn gọi là Tàng thức[3] là cái kho chứa mọi hiểu biết, kinh nghiệm, tư duy, chủng tử, ký ức, thói quen, nghiệp lực, nó quyết định cuộc sống kế tiếp của con người.
3. Nhiệm vụ từng uẩn trong Ngũ uẩn
Ta đã biết rằng ngũ uẩn là thân con người. Đã là người thì phải có ngũ uẩn gồm sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Con vật cũng có thân ngũ uẩn, chỉ khác con người ở chỗ những con vật đó không có lý trí, không có tri thức, hiểu biết, nhận thức. Hay nói khác đi thức uẩn của con vật ở mức độ rất thấp. Con vật chỉ thuần túy sống theo bản năng, không biết nhận thức cái tốt và cái xấu, không biết sáng tạo ra của cải vật chất. Như vậy, con vật tuy cũng có ngũ uẩn, nó có sắc uẩn là cái thân của nó, có thọ uẩn vì có thụ nhận cảm giác, ví như con trâu, khi người nông dân dùng roi điều khiển, con trâu thụ nhận cảm giác mà thực hiện theo điểu khiển của người nông dân, có tưởng, hành và thức uẩn, song cái thức uẩn của con vật vô cùng thấp và không thể phát triển như thức uẩn của con người. Chính vì vậy, đạo Phật nói rằng loài súc sinh là ngu si, là vô minh.
Một điều cần chú ý là cần phân biệt ngũ uẩn với sáu căn của con người là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Bởi vì với mỗi một căn trong sáu căn của sắc uẩn đều được vận hành theo trình tự các uẩn tiếp theo là thọ, tưởng, hành, thức.
- Nhiệm vụ của sắc uẩn : Nói một cách dễ hiểu, sắc uẩn tức là phần vật chất của thân con người tiếp xúc với ngoại cảnh. Đó là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, gọi làsáu căn tiếp xúc với phần cảnh sắc bên ngoài là sáu trần gồm có sắc trần, thanh trần, hương trần, vị trần, xúc trần và pháp trần. Cả hai hợp với nhau thành sắc uẩn. Sắc uẩn có nhiệm vụ tạo sự tiếp xúc giữa con người với cảnh vật bên ngoài, nghĩa là căn tiếp xúc với đối tượng tương ứng của nó là trần.
- Nhiệm vụ của thọ uẩn : Sau khi căn tiếp xúc với trần tương ứng của nó, ví như mắt tiếp xúc với cảnh vật, tai tiếp xúc với âm thanh, mũi tiếp xúc với mùi hương, lưỡi tiếp xúc với mùi vị, thân tiếp xúc vật chất, ý tiếp xúc với pháp thì tạo những cảm giác vui buồn hay không vui cũng không buồn thì gọi là thọ uẩn. Vậy thọ uẩn có nhiệm vụ cảm nhận những cảm giác từ sắc uẩn, nhưng những cảm nhận đó là cái biết chưa phân biệt được, vì vậy nó phải nhờ vào tưởng uẩn.
- Nhiệm vụ của tưởng uẩn : Một khi đã có thọ uẩn, tức là đã có cảm giác nhưng chưa phân biệt rõ rệt được những cảm giác đó như thế nào thì những cảm giác và cái biết đó được đưa thẳng vào hệ thống trung ương thần kinh não bộ tức là bộ óc, từ đó tưởng uẩn mới phân biệt và so sánh rõ cái hay, cái dở, cái vui, cái buồn, cái đẹp cái xấu. Nhiệm vụ của tưởng uẩn là so sánh, phân biệt những thọ uẩn. Tưởng uẩn là cái biết có so sánh phân biệt.
- Nhiệm vụ của hành uẩn : Nhờ tưởng uẩn làm nhiệm vụ so sánh, phân biệt dẫn đến tư tưởng thích hay không thích, vui hay buồn, muốn hay không muốn thì tư tưởng biến thành ý để sai khiến thân và khẩu thực hành những gì nó muốn, đó là nhiệm vụ của hành uẩn. Hành uẩn tạo ra nghiệp do ý nghiệp sai khiến thân nghiệp và khẩu nghiệp thực hiện. Những nghiệp đó dẫn dắt con người sinh tử luân hồi trong các kiếp và khắp các cõi.
- Nhiệm vụ của thức uẩn : Nhưng khi tưởng uẩn tạo ra sự so sánh phân biệt thì tự nó không thể làm được mà phải nhờ vào thức uẩn. Vì nhờ có thức uẩn chứa đựng những cái biết, những kinh nghiệm, ký ức, kỷ niệm, các chủng tử thiện và ác nằm trong tàng thức, thì tưởng uẩn mới có cái để so sánh phân biệt, từ đó mới dẫn đến việc thực hiện những gì nó muốn, mới đưa đến hành uẩn mà thực hiện nghiệp lực được.
Có thể lấy một ví dụ về con mắt. Con mắt (nhãn căn) nhìn bức tranh (sắc trần) tạo thành sắc uẩn. Do con mắt nhìn bức tranh tạo nên có cảm giác thọ nhận tức là thọ uẩn. Nhưng những cảm giác của thọ uẩn đó chưa phân biệt được bức tranh đẹp hay xấu như thế nào thì khi đó phải nhờ đến tưởng uẩn mới phân biệt so sánh xấu hay đep được. Nhưng tưởng uẩn không tự mình làm được nên phải nhờ thức uẩn vì thức uẩn có tàng thức chứa đựng các chủng tử, kỷ niệm, kinh nghiệm, ký ức mới so sánh được. Và sau khi so sánh phân biệt được, tưởng uẩn mới tạo ra ý định khiến hành uẩn thực hiện nhiệm vụ của mình là điều khiển thân nghiệp và khẩu nghiệp tạo ra nghiệp lực của con người.
Đó chỉ là một ví dụ về căn mắt, các căn khác như các căn mũi, lưỡi, thân, ý cũng thực hiện theo cách như vậy.
Còn nữa...
Trích tập sách "Ngũ uẩn, bài học về diệt khổ" của tác giả Phạm Đình Nhân
Chú thích: Nội dung do tác giả gửi tới phatgiao.org.vn
[1] Cũng có quan điểm cho rằng cần hiểu theo một trật tự khác như trong bài viếtNgũ uẩn trong giáo lý nguyên thủy của Ðức Phật của Thích Nguyên Tạng. Trong bài viết này, tác giả xếp theo thứ tự Sắc, Thức, Tưởng, Thọ, Hành. (http:/www.quangduc.com/Thien/43nguuan.html)
[2] Trong chữ Hán, chữ Tưởng (想)có chữ Tướng (相)ở trên chữ Tâm (心), nói cách khác là trên chữ Tâm có chữ Tướng. Có hàm ý là cái tướng (hình ảnh, cảnh sắc) còn lưu lại đặt ở trong tâm mình.
[3] Từ đây trở đi dùng chữ Tàng thức để chỉ A lại da thức, tức thứ tám.
Ngũ uẩn, bài học về diệt khổ (Phần 3)
(PGVN)
Các uẩn trong ngũ uẩn đều có tính chất lôi kéo nhau, liên hệ với nhau. Ví dụ có sắc mới có thọ. Có thọ rồi mới có tưởng, nhưng để có tưởng phải nhờ có thức
III. SỰ VẬN HÀNH CỦA NGŨ UẨN
1.Tính chất của ngũ uẩn :
1.1. Ngũ uẩn được xếp theo thứ tự là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Có cái nọ rồi mới có cái kia, không thể xếp đảo lộn[1]. Bởi vì có sắc mới có thọ, có thọ mới có tưởng, có tưởng mới có hành v.v…
1.2. Con người ta là một thể thống nhất gồm có phần vật chất là thân con người tức sắc uẩn và phần tinh thần thuộc về tâm là bốn uẩn : thọ, tưởng, hành, thức, biểu hiện ở tâm hồn, cảm giác, suy tư, lý trí và ý thức. Do đó thân và tâm thống nhất là một mới hình thành con người. Nên tính chất của uẩn là sự kết hợp, hòa quyện không rời nhau giữa tâm và thân. Không thể tách bỏ riêng ra từng phần, nghĩa là không thể thành con người nếu chỉ có thân mà không có tâm. Và ngược lại cũng không thể thành con người, nếu chỉ có tâm và không có thân.
1.3. Trong mỗi một uẩn đều có nhiều yếu tố, ví như trong sắc uẩn bao gồm thân tứ đại gọi là phù trần căn và hệ thần kinh gọi là tịnh sắc căn, trong thức uẩn cũng có nhiều thức khác nhau như tiền ngũ thức, ý thức, mạc na thức và tàng thức.
1.4. Các uẩn trong ngũ uẩn đều có tính chất lôi kéo nhau, liên hệ với nhau. Ví dụ có sắc mới có thọ. Có thọ rồi mới có tưởng, nhưng để có tưởng phải nhờ có thức.
1.5. Sự kết tụ của năm uẩn là khổ. Nên bản chất của con người là khổ đau. KinhĐại Bát Nhã có nói : “Cái thân con người là một đống khổ não kết tụ với nhau, là tướng của khổ đau, của sinh già bệnh chết, của tham sân si mạn vv…”.
2. Quá trình vận hành của ngũ uẩn.
Nói một cách tổng quát : Cơ thể con người mà cụ thể là năm giác quan mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, là hiện tượng sinh lý có sự sống mà chưa có nhận thức (ta gọi là sắc). Sự vật hay cảnh sắc bên ngoài là một hiện tượng vật lý chưa có sự sống và chưa có nhận thức (ta gọi là trần). Còn cảm giác mà ta cảm nhận được là hiện tượng tâm lý đã có sự sống và có nhận thức nhưng chưa có phân biệt. Như vậy, trong ngũ uẩn, sắc tiếp xúc với trần sinh ra thức hay nói khác đi sinh lý tiếp xúc với vật lý sinh ra tâm lý mà giai đoạn đầu tiên của tâm lý là cảm giác tức thọ uẩn.
Quá trình vận hành của ngũ uẩn có thể diễn đạt cụ thể như sau (đối với từng căn một):
2.1. Đối với con mắt (nhãn căn) :
Khi con mắt nhìn bức tranh mỹ thuật treo trên tường, tức nhãn căn tiếp xúc vớisắc trần thì con mắt là sinh lý còn bức tranh là vật lý, hai thứ đó gọi chung là sắc uẩn. Đó mới chỉ là hình tướng mà chưa có phần tâm linh. Khi giây thần kinh thị giác của con mắt tiếp xúc với bức tranh mới tạo ra sự rung động, tạo ra những cảm giác thích thú hay không thích thú, cảm giác vui hay buồn, dễ chịu hay khó chịu thì đó gọi là thọ uẩn, tức là mới cảm nhận nhưng chưa có sự phân biệt được cái thích thú, vui buồn là do cái gì và như thế nào. Nhưng khi bộ óc và hệ thần kinh tiếp xúc với những cảm giác đó thì mới có tư tưởng tức là tưởng uẩn. Và khi đó tưởng uẩn mới phân biệt được bức tranh ấy đẹp hay xấu, màu sắc nền nã hay sặc sỡ, bố cục bức tranh hài hòa hay lộn xộn, chân thực hay không chân thực, có sức truyền cảm hay không ? Nhưng để phân biệt so sánh những điều đó thì tưởng uẩn phải nhớ lại mới có thể so sánh, phân biệt. Những cái cần nhớ lại đó là những cái đã có trong số các ký ức, kinh nghiệm, kỷ niệm, những chủng tử thiện ác nằm trong thức uẩn mà cụ thể là trong tàng thức vì tàng thức chỉ là một trong tám thức khác nhau. Ở đây cần nói thêm, Phật giáo quan niệm cái biết của con người tức thức uẩn bao gồm tám loại thức khác nhau (như đã nói ở phần trên) mà tàng thức là thức thứ tám.
![]() |
Ảnh minh họa |
Tuy nhiên, tưởng uẩn không thể tự mình có cái để mà phân biệt so sánh vì những cái đó nằm trong tàng thức, nên tưởng uẩn phải nhờ thức thứ 7 tức Mạc na thức đưa tư tưởng vào thức uẩn (tàng thức) mới có thể so sánh, phân biệt giữa những cái vừa thấy với những cảm xúc, chủng tử, kinh nghiệm, ký ức đã xảy ra trong quá khứ đã ghi lại nằm trong tàng thức. Cụ thể ở đây là trong tàng thức đã có sẵn những ký ức về những tác phẩm mỹ thuật mà người ta đã lưu giữ từ cuộc sống trong quá khứ để lại, nên có thể so sánh, phân biệt và đánh giá, thưởng thức được. Khi so sánh xong, thì tư tưởng biến thành ý thức (thức thứ 6) để sai khiến thân và khẩu thực hiện những gì nó muốn tức là hành uẩn, tạo ra các nghiệp thiện và ác cho con người. Ví dụ đối với một người chơi tranh nghệ thuật, sau khi xem tranh xong nảy ra ý định muốn có bức tranh ấy về treo trong nhà, nhưng khả năng tài chính không đủ tiền để mua bức tranh đó thì lòng dằn vặt đau khổ, tìm mọi cách để có tiền mua được bức tranh đó về. Sự dằn vặt cùng với nỗi lo toan làm sao để có tiền đã làm cho anh ta sống không yên ổn, đó là nỗi khổ của anh ta. Còn đối với kẻ có lòng tham thì khi vào bảo tàng xem tranh, thấy bức tranh có giá trị nảy ra thủ đoạn ăn cắp và tìm mọi cách để đoạt được bức tranh đó, gây ra tội vi phạm pháp luật và kết cục nghiệp anh ta phải gánh chịu là ngồi tù trong trại giam, chịu sự khổ sở trong đời. Sở dĩ có như vậy là do tư tưởng, ý niệm xuất phát từ tưởng uẩn gây ra. Do đó tưởng uẩn là nguồn gốc tạo ra các nghiệp để đưa con người vào con đường đau khổ, con đường sinh tử luân hồi. Người ta còn gọitưởng uẩn là nguồn gốc của mọi sai lầm chủ quan của con người, vì nếu chủ quan thì tưởng uẩn sẽ dẫn đến mọi cách giải quyết công việc không đúng và gây ra sai lầm tội lỗi. Như vậy tưởng uẩn là cội nguồn gây ra hành uẩn, tạo các nghiệp lực để đưa con người vào con đường thiện hay ác mà thường là con đường đau khổ.
Một ví dụ khác về con mắt tức nhãn căn: Có một chàng thanh niên trong buổi kỷ niệm mừng sinh nhật của người bạn thân đã gặp các cô gái cùng đến dự. Mắt của anh ta nhìn chăm chú đến một trong những cô gái đến dự, nghĩa là nhãn căn tiếp xúc với sắc trần tạo nên sắc uẩn, nhưng sắc uẩn đó chỉ là hình tướng chưa có phần tâm lý. Sau đó giây thần kinh thị giác của con mắt do nhìn thấy cô gái mới tạo nên sự rung động, nảy sinh cảm giác có cảm tình với cô gái đó, tức là giai đoạn thọ uẩn và qua quá trình vận hành từ thọ uẩn đến tưởng uẩn, rồi từ tưởng uẩn nhờ vào sự so sánh, phân biệt với các tình cảm, kỷ niệm, ký ức, các chủng tử của cuộc đời của anh ta có sẵn trong tàng thức (thức thứ 8) làm cho anh ta nảy sinh ra ý niệm yêu đương trìu mến, về nhà thì thương vụng nhớ thầm, cái tham ái nổi lên làm cho anh ta đau khổ.
2.2. Đối với cái tai (nhĩ căn):
Khi tai ta nghe thấy tiếng sấm rền, tiếng gió rít trên không trung, tức nhĩ căn tiếp xúc với thanh trần thì cái tai là sinh lý, còn tiếng sấm và tiếng gió là vật lý, hai thứ đó gọi chung là sắc uẩn. Đó mới chỉ là hình tướng mà chưa có phần tâm linh. Khi giây thần kinh thính giác của tai tiếp xúc với âm thanh của sấm và của gió mới tạo ra sự rung đông, những cảm giác vui hay buồn, ghê sợ hay không ghê sợ thì đó gọi là thọ uẩn, tức là mới cảm nhận nhưng chưa có sự phân biệt được cái ghê sợ, vui buồn là như thế nào. Nhưng khi bộ óc và hệ thần kinh tiếp xúc với những cảm giác đó thì mới có tư tưởng tức là tưởng uẩn. Và khi đó tưởng uẩn mới phân biệt được những âm thanh đó sẽ đưa đến cái gì, một trận mưa hay trận bão sắp kéo đến ? Nhưng để phân biệt so sánh những điều đó thì tưởng uẩn phải nhớ lại mới có thể so sánh, phân biệt. Những cái cần nhớ lại đó là những cái đã có trong số các ký ức, kinh nghiệm, kỷ niệm, những chủng tử thiện ác nằm trong thức uẩn mà cụ thể là trong tàng thức. Tuy nhiên, tưởng uẩn không thể tự mình có cái để mà phân biệt so sánh vì những cái đó nằm trong tàng thức, nên tưởng uẩn phải nhờ thức thứ 7 tức Mạc na thức đưa tư tưởng vào tàng thức mới có thể so sánh, phân biệt giữa những cái vừa nghe thấy với những cảm xúc, chủng tử, kinh nghiệm đã xảy ra trong quá khứ đã ghi lại nằm trong tàng thức. Cụ thể ở đây là trong tàng thức đã có sẵn những ký ức về những tiếng sấm rền, tiếng sét đánh, tiếng gió gào, tiếng mưa rơi đã lưu giữ từ quá khứ để lại, nên có thể so sánh, phân biệt và đánh giá kết quả sẽ như thế nào. Khi so sánh xong, thì tư tưởng biến thành ý thức (thức thứ 6) để sai khiến thân và khẩu thực hiện những gì nó muốn tức là hành uẩn, tạo ra các hành động như tìm cách phòng chống thiên tai, củng cố nhà cửa cho vững chắc, hoặc sơ tán gia đình, cùng súc vật và của cải để chống mưa, bão, lũ lụt có thể sắp sảy đến.
Một ví dụ khác, có một đại gia trong một lần đi xem một vở cải lương, anh ta được nghe một giọng hát từ một nữ tài tử. Tai anh ta nghĩa là nhĩ căn tiếp xúc với tiếng hát tức thanh trần tạo nên sắc uẩn, nhưng sắc uẩn đó chỉ là phần vật lý tiếp xúc với phần sinh lý và chưa có phần tâm lý. Sau đó giây thần kinh nhĩ giác của tai do nghe được tiếng hát của nữ tài tử mới tạo nên sự rung động, nảy sinh cảm giác say mê tiếng hát và có cảm tình với tiếng hát hay đó, tức là sang giai đoạn thọ uẩn và qua quá trình vận hành từ thọ uẩn đến tưởng uẩn, rồi từ tưởng uẩn nhờ vào sự so sánh, phân biệt với các những âm thanh, tiếng hát, những kỷ niệm, ký ức, các chủng tử của cuộc đời của anh ta có sẵn trong tàng thức (thức thứ 8) làm cho anh ta nảy sinh ra ý niệm say mê tiếng hát và cảm thấy cuộc sống của anh không thể không có tiếng hát ngọt ngào và say đắm lòng người của người nữ tài tử kia. Rồi sinh ra yêu đương trìu mến muốn có người nữ tài tử là của riêng của mình để một mình mình hàng ngày được nghe tiếng hát. Từ cái thủ uẩn đó đã phát sinh lòng tham ái, yêu đương rồi tìm cách để chiếm được nữ tài tử về nhà cho mình mà gây ra bao đau khổ phiền não cho cuộc đời anh ta khi không được thỏa mãn lòng khao khát yêu đương đó.
2.3. Đối với cái mũi (tỷ căn) :
Khi mũi ta ngửi thấy mùi hương trầm trên chính điện của ngôi chùa, hay mùi hương của những bông hoa cúng Phật, tức tỷ căn tiếp xúc với hương trần thì cái mũi là sinh lý, còn mùi hương hoa trong chùa thuộc về cảnh trần tức là phần vật lý, hai thứ đó gọi chung là sắc uẩn. Đó mới chỉ là hình tướng mà chưa có phần tâm linh. Khi giây thần kinh khứu giác của lỗ mũi tiếp xúc với mùi hương hoa trong chùa mới tạo ra sự rung động, những cảm giác vui hay buồn, dễ chịu và thanh thản thì đó gọi là thọ uẩn, tức là mới cảm nhận nhưng chưa có sự phân biệt được cái dễ chịu, vui buồn là như thế nào. Nhưng khi bộ óc và hệ thần kinh tiếp xúc với những cảm giác đó thì mới có tư tưởng tức là tưởng uẩn. Và khi đó tưởng uẩn mới phân biệt được mùi hương trầm và mùi hoa ấy thơm như thế nào, nhẹ nhàng hay ngào ngạt ? Và để phân biệt so sánh những mùi hương đó thì tưởng uẩn phải nhớ lại mới có thể so sánh, phân biệt. Những cái cần nhớ lại đó là những cái đã có trong số các ký ức, kinh nghiệm, kỷ niệm, những chủng tử nằm trongthức uẩn mà cụ thể là trong tàng thức. Tuy nhiên, tưởng uẩn không thể tự mình có cái để mà phân biệt so sánh vì những cái đó nằm trong tàng thức, nên tưởng uẩn phải nhờ thức thứ 7 tức Mạc na thức đưa tư tưởng vào thức uẩn (tàng thức) mới có thể so sánh, phân biệt giữa những mùi hương, mùi hoa vừa ngửi thấy với những cái đã có trong các chủng tử, kinh nghiệm đã tiếp thu được trong quá khứ nằm trong tàng thức. Cụ thể ở đây là trong tàng thức đã có sẵn những ký ức về những mùi hương hoa mà con người đã lưu giữ từ cuộc sống trong quá khứ để lại, nên có thể so sánh, phân biệt và đánh giá, thưởng thức được. Khi so sánh xong, thì tư tưởng biến thành ý thức (thức thứ 6) để sai khiến thân và khẩu thực hiện những gì nó muốn tức là hành uẩn, tạo ra các nghiệp thiện và ác cho con người. Ví dụ đối với một người Phật tử thuần thành khi ngửi thấy mùi hương hoa trong chùa thì lòng thấy nhẹ nhàng, tâm thanh tịnh, tăng trưởng lòng thành tín với Phật pháp, thấy cuộc sống thường ngày bớt khổ hơn, thấy con đường đi theo Phật pháp là con đường đưa ta đến từ bi hỷ xả, từ đó tăng thêm công đức làm việc thiện, tạo rất nhiều nghiệp thiện trong đời. Còn đối với những kẻ không có lòng tin theo đạo Phật thì chỉ thấy mùi hương là mùi hương, mùi thơm của hoa chỉ là mùi thơm của hoa không mảy may tác động đến đời sống tâm linh của anh ta. Sở dĩ có như vậy là do tư tưởng, ý niệm xuất phát từ tưởng uẩn gây ra. Do đó tưởng uẩn là nguồn gốc tạo ra các nghiệp là vì thế.
Như trên đã lấy 3 căn mắt, tai, mũi để chứng minh cho sự vận hành của ngũ uẩn. Đối với các căn khác là lưỡi, thân, ý, sự vận hành của ngũ uẩn cũng đều như thế.
3. Tầm quan trọng của Ngũ uẩn:
Có thể tóm tắt quá trình vận hành của ngũ uẩn như sau:
Quá trình vận hành của ngũ uẩn diễn ra tuần tự xuất phát từ các căn tiếp xúc với các trần tạo thành sắc uẩn. Nhưng sắc uẩn mới chỉ là hình tướng mà chưa có phần tâm linh. Khi giây thần kinh tiếp xúc với sắc trần mới tạo ra sự rung động, tạo ra những cảm giác thích thú hay không thích thú, cảm giác vui hay buồn, dễ chịu hay khó chịu thì đó gọi là thọ uẩn. Nhưng thọ uẩn mới cảm nhận được mà chưa có sự phân biệt và so sánh được cái cảm nhận đó như thế nào, đến khi bộ óc và hệ thần kinh tiếp xúc với những cảm giác đó thì mới có tư tưởng tức là tưởng uẩn.Khi đó tưởng uẩn mới phân biệt và so sánh được tính chất và trạng thái của cảm giác. Nhưng để phân biệt so sánh thì tưởng uẩn phải nhớ lại mới có thể so sánh, phân biệt. Những cái cần nhớ lại đó là những cái đã có trong số các ký ức, kinh nghiệm, kỷ niệm, những chủng tử thiện ác nằm trong thức uẩn mà cụ thể là trong A lại da thức tức tàng thức. Tuy nhiên, tưởng uẩn không thể tự mình có thể phân biệt so sánh, nên tưởng uẩn phải nhờ thức thứ 7 tức Mạc na thức đưa tư tưởng vào thức uẩn tức tàng thức (thức thứ 8) mới có thể so sánh, phân biệt được. Khi so sánh xong, thì tư tưởng biến thành ý thức (thức thứ 6) để sai khiến thân và khẩu thực hiện những gì nó muốn tức là hành uẩn, hành uẩn tạo ra các nghiệp thiện và ác cho con người. Ta thấy, tư tưởng tức thức thứ 6 chi phối mọi hoạt động của con người thông qua hành uẩn, sai khiến thân và khầu tạo tác các nghiệp. Vì thế tư tưởng, ý niệm có phát lên được là do có thức uẩn tức là tàng thức, cho nên nếu con người đánh mất thức uẩn thì không thể nào phát khởi lên bất cứ ý niệm nào được.
Một khi thân và khẩu tạo tác ra nghiệp thì tất cả những chủng tử thiện ác do nghiệp gây ra lại sẽ được chứa trở lại trong tàng thức của thức uẩn. Vậy thức uẩn là cái kho tàng chất chứa tất cả những chủng tử của kinh nghiệm, ký ức, kiến thức cùng với tất cả những chủng tử thiện, ác hay không thiện không ác từ trước tới nay. Do đó, cái nhân mà con người đã tạo tác được chứa trong tàng thức, một khi có đủ duyên thì sẽ phát khởi mà sinh ra quả báo thể hiện đúng theo quy luật của nhân quả.
Trong từng giai đoạn vận hành của ngũ uẩn, sự hình thành của từng uẩn đều tác động đến đời sống con người. Ví như giai đoạn thọ uẩn, người học Phật cần phải hiểu chữ thọ một cách sâu sắc. Ta nhận thấy rằng khi lục căn tiếp xúc với lục trần, tất nhiên ta cảm nhận hay thọ nhận những cái vui hay cái buồn, cái hay hay cái dở, cái sung sướng hay khổ đau, tức là thụ nhận cái lạc thọ hoặc cái khổ thọ hay cái không lạc và không khổ. Cả 3 cái thọ đó đều có thể gây ra đau khổ.
Khi tâm ta thọ cái vui, cái sung sướng (tức lạc thọ) thì sẽ bị lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) lôi kéo làm cho tâm ta không sáng suốt, dễ mê lầm. Ví như mắt ta nhìn thấy những bông hoa đẹp ta thấy vui thích tức lạc thọ, muốn hưởng cái niềm vui đó mãi và vì vậy muốn ngắt những bông hoa đó về cho mình dù không phải là của mình. Cái lạc thọ đó đưa đến lòng tham. Hoặc khi ăn một món cao lương mỹ vị, của ngon vật lạ, ta thấy khoái khẩu, đó là lạc thọ và cứ muốn có mà ăn mãi. Và nếu không được ăn như thế luôn thì cảm thấy thiếu thốn, thèm khát. Nỗi thèm muốn đó thôi thúc làm mọi cách để thỏa mãn lòng tham muốn đó, sẽ gây ra những nghiệp gây hậu quả khổ sở sau này. Khi đi qua một người giàu sang có sức mùi nước hoa thơm nhẹ nhàng và quý phái, ta thèm muốn có được loại nước hoa đắt tiền đó để dùng, đó là lạc thọ, mà nếu không có được thì sinh ra buồn khổ day dứt, tự gây khổ cho mình. Do đó chạy theo lạc thọ là chay theo lòng tham muốn đưa đến nghiệp lực phải chịu quả khổ, chạy theo lạc thọ tức là chay theo nỗi khổ sinh tử luân hồi.
Còn khi ta có những chuyện đau buồn tức là ta cảm nhận những đau khổ đắng cay của cuộc đời (tức khổ thọ) thì tâm ta càng không yên ổn, sự bực tức xuất hiện làm cho tâm sân phát triển. Một khi tâm sân phát triển ta không thể nào tránh được những hành xử không đúng và dĩ nhiên dễ gây ra nghiệp bất thiện. Do đókhổ thọ cũng có thể đưa con người ta vào vòng sinh tử luân hồi.
Vi vậy Đức Phật dậy hàng phật tử phải hiểu thật sâu rộng cái chữ thọ, phải thấy tác dụng của thọ uẩn đưa đẩy con người ta vào vòng sinh tử luân hồi như thế nào.
Trong bộ Lương Hoàng Sám có nói đến nguồn gốc của oán thù đau khổ như sau : “Chính vì mắt tham sắc, tai tham tiếng, mũi tham hương, lưỡi tham vị, thân tham xúc tế nhị nên chúng sinh thường bị các ngoại trần ràng buộc, nhiều kiếp ở trong đêm dài mờ mịt, không được giác ngộ và giải thoát”..
Đến đây, ta có thể thấy mấy vấn đề cơ bản sau :
- Sắc thân con người là phần vật chất cấu tạo do bốn yếu tố mà nhà Phật gọi là đất, nước, gió, lửa. Khoa học hiện đại gọi là bốn trạng thái hay bốn yếu tố chất rắn, chất lỏng, chất khí và chất nhiệt. Tuy nhiên thân cũng có hai phần là sắc thân tứ đại còn goi là phù trần căn và phần thứ hai gọi là tịnh sắc căn tức là hệ thống thần kinh não bộ. Vì vậy, khi con người chết, phần vật chất tức thân tứ đại chết ngay, tim ngừng đập, nhưng tịnh sắc căn chưa chết. Đạo Phật cho rằng phải ít nhất là tám tiếng đồng hồ sau đó thì tất cả các giây thần kinh mới ngừng hoạt động. Vì thế trong khi một người hấp hối cần có hộ niệm và khi tim ngừng đập, không còn hơi thở, phải chờ đến từ tám giờ đồng hồ trở lên mới được động đến thi thể để cho thần thức thoát ra ngoài được trọn vẹn.
- Phật giáo cho rằng phần tâm linh của con người gồm có 4 tâm khác nhau. Bốn tâm đó bao chứa tám thức của con người gọi là bát thức tâm vương:
+ Tâm thứ nhất gọi là tiền ngũ thức tức, chính là năm thức đầu tiên gồm nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức và thân thức, còn gọi là trực tâm. Đó là cái cảm giác, là cái biết nhưng chưa có sự phân biệt của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, đó là cái biết của trực giác cho ta những cảm giác đầu tiên.
+ Tâm thứ hai chính là tư tưởng, là ý thức (thức thứ 6). Tâm này dựa vào sự làm việc của bộ óc để phân biệt, so sánh cái phải, cái trái, cái tốt, cái xấu, cái hay, cái dở…Vì vậy, tâm thứ hai này rất quan trọng vì nó quyết định đi đến hành động của con người, đưa con người đến với nghiệp lực hoặc bị đọa lạc hay được hưởng hạnh phúc. Vì lẽ đó, Đức Phật đã dậy trong kinh Pháp cú :
Tâm dẫn đầu các Pháp
Tâm làm chủ tạo tác.
Đối với tâm nhiễm ô
Nói năng hay hành động
Khổ não bước theo sau
Như bánh xe lăn theo
Dấu chân con vật kéo
(Pháp cú 1)
Tâm dẫn đầu các Pháp
Tâm làm chủ tạo tác.
Đối với tâm thanh tịnh
An lạc bước theo sau
Như bóng không rời hình
(Pháp cú 2)
Hai bài kệ trên là hai bài kệ mở đầu bản Kinh Pháp cú[2], cho ta thấy vai trò làm chủ của tâm, ý đối với thân và khẩu rất rõ ràng. Đồng thời cho thấy mối tương quan nhân quả từ nơi tâm ý con người mà có quả báo thiện hay ác. Do đó, hạnh phúc hay khổ đau đều từ tâm ý con người kiến tạo ra và phải thọ nhận.
Vì vậy người Phật tử hay hành giả có thể điều khiển được cái tâm, ý thức để thoát ly được sinh tử luân hồi, đi đến giải thoát, giác ngộ.
+ Tâm thứ ba là thức thứ bảy tức là mạc na thức. Tâm này có nhiệm vụ giúp cho thức thứ sáu (tư tưởng, ý thức) nhằm lựa chọn sự so sánh, phân biệt những gì có lợi cho cái Ta và cái của Ta nằm trong tàng thức (thức thứ tám) để rồi quyết định bằng cách điều khiển tiền ngũ thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức và thân thức) thực hiện hành động để tạo ra nghiệp. Vì thế tâm này thường được gọi là tâm nghiệp, vì nó là công cụ giúp cho tư tưởng tức thức thứ sáu lục tìm những chủng tử đã có trong a lại da thức để so sánh phân biệt, giúp cho tư tưởng tức thức thứ sáu tạo nghiệp.
+ Tâm thứ tư là tâm sau cùng, cũng là thức thứ tám là kho chứa tất cả kinh nghiệm, kiến thức, ký ức, kỷ niệm và tất cả những chủng tử thiện, ác, tốt, xấu, không tốt cũng không xấu v.v...từ vô thủy tới nay.
Ngày nay khoa học cho rằng bộ óc con người là nơi dung chứa tất cả mọi sự hiểu biết của con người, nhưng giáo lý đạo Phật thì không cho là như vậy. Bởi vì nếu sự hiểu biết của con người chứa trong bộ óc thì khi con người chết, thân thể hủy diệt thì bộ óc cũng bị hủy diệt, vậy sự hiểu biết cũng phải hủy diệt theo. Nhưng trên thực tế, khi con người chết, bộ óc bị hủy diệt nhưng thần thức tức tất cả những chủng tử chứa trong tàng thức thoát ra khỏi xác chểt (ít nhất là sau tám tiếng đồng hồ) rồi bay vào không gian qua giai đoạn thân trung ấm để đầu thai vào thân xác mới. Nhiều cuốn sách nói về cái chết đã chứng minh điều đó. Đây là chỗ khác nhau giữa khoa học hiện đại và đạo Phật.
Chỗ khác nhau nữa giữa khoa học hiện đại với đạo Phật còn thể hiện ở chỗ : Những chứng minh của khoa học hiện đại nói về các bộ não siêu việt của các nhà bác học vĩ đại, cho rằng những bộ óc đó có rất nhiều ngăn tinh tế được sắp xếp một cách phức tạp hơn những bộ não bình thường và cho rằng đó là những ngăn chứa những tư tưởng khác thường, tạo ra những phát minh vĩ đại.
Nhưng đạo Phật cho rằng : trên thực tế, những phát minh mới lạ của các nhà bác học cũng phải trải qua rất nhiều công phu tìm tòi trong phòng thí nghiệm, phải giải quyết nhiều bài toán về toán học, vật lý học, hóa học, thiên văn vũ trụ học v.v…Mà muốn giải những bài toán ấy cũng phải dựa vào những cái đã có tức là những phát minh đã có, những bài toán đã có, những định đề, những định luật và định lý khoa học đã có từ trước mới phát triển lên và mới phát minh ra được.
Như vậy rõ ràng là phải có “những cái đã có” để mà so sánh phân biệt. Những cái đã có đó đã nằm trong tàng thức, bỏi vì muốn nhớ lại “những cái đã có” thì phải quay về cái kho chứa “những cái đã có” trong thức uẩn tức trong tàng thức mà ta thường gọi một cách tổng quát là những ký ức, kỷ niệm, kiến thức, kinh nghiệm và các chủng tử.
Nhưng đạo Phật cho rằng : trên thực tế, những phát minh mới lạ của các nhà bác học cũng phải trải qua rất nhiều công phu tìm tòi trong phòng thí nghiệm, phải giải quyết nhiều bài toán về toán học, vật lý học, hóa học, thiên văn vũ trụ học v.v…Mà muốn giải những bài toán ấy cũng phải dựa vào những cái đã có tức là những phát minh đã có, những bài toán đã có, những định đề, những định luật và định lý khoa học đã có từ trước mới phát triển lên và mới phát minh ra được.
Như vậy rõ ràng là phải có “những cái đã có” để mà so sánh phân biệt. Những cái đã có đó đã nằm trong tàng thức, bỏi vì muốn nhớ lại “những cái đã có” thì phải quay về cái kho chứa “những cái đã có” trong thức uẩn tức trong tàng thức mà ta thường gọi một cách tổng quát là những ký ức, kỷ niệm, kiến thức, kinh nghiệm và các chủng tử.
Điều trình bày trên cũng chứng minh cho lý thuyết duyên khởi của Đạo Phật. Đạo Phật nói rằng mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ đều phải có nhân và có duyên hòa hợp với nhau mới tạo thành. Vì vậy, các phát minh sáng tạo của các nhà bác học trong quá trình nghiên cứu đều phải quay về với những cái đã có trong tàng thức là nhân và từ đó nghiên cứu, tìm tòi, phát triển thêm tức là thêm duyên để tạo thành kết quả là các phát minh sáng tạo. Những phát minh sáng tạo tức là tưởng uẩn, tức tư tưởng sau đó mới sai khiến chuyển sang hành uẩn tức là chuyển sang thực hành.
Còn đối với một người bị bệnh thần kinh mất trí nhớ có nghĩa là một bộ phận trong bộ óc bị hỏng, nên họ có dùng tưởng uẩn để nhớ lại thì cũng không thể nào tìm được gì trong thức uẩn (tàng thức) vì tư tưởng tức tưởng uẩn của họ không còn tác động với bộ óc vì một bộ phận bộ óc bị hỏng, nên không vào được thức uẩn (tàng thức) để tìm kiếm so sánh phân biệt mặc dù thức uẩn tức tàng thức vẫn còn đó.
Tóm lại, khi con người sắp chết, thân tứ đại rã rời và rồi sắc uẩn ngừng hoạt động, hệ thần kinh cũng ngừng hoạt động nên không còn cảm nhận cảm giác tức là thọ uẩn cũng mất. Một khi bộ óc ngừng hoạt động thì tư tưởng cũng ngừng theo nên tưởng uẩn cũng biến mất. Do tưởng uẩn không còn nên hành uẩn cũng không còn nữa. Chỉ còn có thức uẩn là vô hình và không tùy thuộc vào bộ óc con người nên thức uẩn vẫn tồn tại khi thân xác con người bị hủy diệt. Cái thức uẩn bao gồm những kiến thức, kỷ niệm, ký ức, kinh nghiệm, thói quen và các chủng tử thiện ác vẫn tồn tại và thoát ra khỏi thân con người để đi vào một cõi khác.
Còn nữa...
Trích tập sách "Ngũ uẩn, bài học về diệt khổ" của tác giả Phạm Đình NhânChú thích: Nội dung do tác giả gửi tới phatgiao.org.vn
Còn nữa...
Trích tập sách "Ngũ uẩn, bài học về diệt khổ" của tác giả Phạm Đình NhânChú thích: Nội dung do tác giả gửi tới phatgiao.org.vn
[1] Tuy nhiên cũng có nhà nghiên cứu xếp theo một thứ tự khác như trong chú thích ở điểm chú thích 1. Ngoài ra cũng có ý kiến cho rằng nên sắp xếp theo thứ tự sắc, thọ, thọ, tưởng, thức, hành.
[2] Kinh Pháp cú là cuốn kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế bao gồm những lời dạy tinh túy về giáo lý và mang tính chất triết học cho cả hai giới xuất gia và tại gia. Cuốn kinh này gồm 26 phẩm, 423 bài kệ. Ở Việt Nam cuốn kinh này đã được Hòa thượng Thích Thiện Siêu và Hòa thượng Thích Minh Châu dịch sang Việt ngữ.
Ngũ uẩn, bài học về diệt khổ (Phần cuối)
(PGVN)
Đạo Phật cho rằng khổ đau của con người có nguồn gốc sâu xa từ trong tâm thức. Các bản kinh của Phật giáo khi đề cập đến nguyên nhân khổ đau của con người đều nói đó chính là lòng tham
1. Căn nghiệp của con người.
Ta thường biết rằng trong cuộc sống hằng ngày có những kẻ sống khốn khổ cùng cực, đời sống bất hạnh. Trái lại, có người sinh sống trong giầu có, vinh hoa phú quý, hạnh phúc tràn trề. Có những người khi sinh ra và lớn lên đã thông minh xuất chúng, khả năng tinh thần trí thức cao siêu. Lại có nhiều người khác thì ngu si dốt nát, phải trải qua suốt cuộc đời trong mê mờ, ngu muội và tăm tối. Có những người khỏe mạnh, to lớn, đẹp đẽ và hầu như không có bệnh tật, nhưng lại có những kẻ sinh ra đã ốm đau bệnh tật, gầy còm, xấu xí và đơn độc một cách đáng thương. Có người sống đến tuổi già, tuy đầu bạc răng long nhưng vẫn còn minh mẫn, lại có những kẻ phải lìa bỏ cuộc đời giữa thời niên thiếu, thậm chí chưa kịp chào đời đã phải xa lìa trần thế. Tại sao có những người sinh ra lớn lên trở thành bác sĩ, kỹ sư, những nhà nghiên cứu khoa học, những nhà bác học lừng danh trên thế giới với những cống hiến cho xã hội để lại tiếng thơm cho đời sau, trong khi đó có những kẻ có cuộc đời vô vị không có gì đáng kể để đóng góp cho xã hội và hình như họ sống trong lãng quên, trong đêm tối, không ai màng biết đến? Tất cả những điều ấy đều là những vấn đề mà hầu như ai cũng biết, nhưng hầu như không có một lời giải đáp một cách đúng đắn.
Nếu mọi người chúng ta hiểu được những giáo lý cơ bản của Đức Phật, thấu hiểu được giáo lý Tứ diệu đế, Mười hai nhân duyên, Ngũ uẩn, luật nhân quả và nghiệp báo, hiểu được những hành động thiện hay bất thiện do mình tạo tác trong cuộc đời mình sẽ gây ra những kết quả lành hay ác cho chính bản thân mình ngay đời này hay trong những kiếp sau, thì sẽ tránh được những nỗi khổ niềm đau cho chính cuộc đời mình. Nếu hiểu được như thế, thì sẽ giải thích được các hiện tượng kể trên. Đó là do Căn nghiệp của con người đã tạo tác gây nên từ trong những đời quá khứ và ngay trong đời hiện tại. Nhưng căn nghiệp của con người do đâu mà ra, đó là do tưởng uẩn đã qua thức uẩn mà sai khiến hành uẩn tạo nghiệp. Hay nói khác đi là do ý thức, tư tưởng của con người chi phối. Mà có ý thức, tư tưởng con người tức là do ngũ uẩn. Vậy nói một cách sâu xa hơn là dothủ uẩn, do chấp thủ vào ngũ uẩn, tức là sự bám víu vào cái Ta và cái của Ta mà ra, mà tạo ra nhiều đau khổ.
Chính vì bám víu vào cái Ta và cái của Ta, do chấp thủ ngũ uẩn nên sinh lòng tham, vì dục vọng luôn theo sát bên ta. Lòng tham do tham sắc, tham do thọ uẩn, tham do tưởng uẩn thúc đẩy nên mới có ý tưởng thực hành nghiệp. Và cũng từ đó gây ra bao nhiêu đau khổ cho con người.
![]() |
Đức Phật thuyết bài pháp Tứ đế cho năm anh em Kiều Trần Như |
2. Nguyên nhân đau khổ của con người.
Trong buổi đầu thuyết giảng tại Vườn Lộc Uyển, Đức Phật đã thuyết về Tứ Diệu đế như sau: “…Này các tỷ kheo, đây chính là Khổ thánh đế: sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, oán ghét gặp nhau là khổ; thân ái biệt li là khổ, cầu không được là khổ và chấp thủ năm uẩn là khổ…” .
Trong tám cái khổ đó, cái khổ cuối cùng là Ngũ ấm xí thạnh khổ tức là cái khổ do hiện hữu năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), do sự phát huy mạnh mẽ của năm uẩn, chính là cái khổ do chấp thủ vào ngũ uẩn gây ra.
Đạo Phật cho rằng khổ đau của con người có nguồn gốc sâu xa từ trong tâm thức. Các bản kinh của Phật giáo khi đề cập đến nguyên nhân khổ đau của con người đều nói đó chính là lòng tham. Do tham ái mà con người ta cố bám víu vào các đối tượng của tham ái, sự khao khát về dục lạc sẽ dẫn đến nỗi khổ niềm đau kéo dài liên miên vì lòng khao khát tham ái không bao giờ dừng, không bao giờ thỏa mãn. Phật giáo cũng chỉ ra rằng nguyên nhân sâu xa hơn và là nguyên nhân căn bản đó là vô minh, là si mê, vì không thấy rõ bản chất của sự vật và hiện tượng đều do duyên sinh, đều vô ngã và vô thường. Vì thế cho nên con người ta chỉ thấy "cái tôi" và "cái của tôi" là quan trọng nhất. Rõ ràng nếu không chấp ngã và dục vọng, không bị vị kỷ hay phiền não khuấy động, chi phối, ngự trị trong tâm con người thì cuộc đời đầy an lạc và hạnh phúc. Vì vậy muốn nhổ cái gốc Vô minh gây đau khổ cho chúng sinh thì phải nhổ tận gốc cái chấp ngã với việc áp dụng giáo lý Mười hai nhân duyên và Ngũ uẩn.
Chính vì Ngũ uẩn thường ngăn che tâm trí của con người như bóng mây thường che ánh nắng mặt trời, nên những dục vọng, những ham muốn và lòng tham của con người luôn luôn phát triển làm cho con người mê muội không nhận thấy cái Ta thật tính, tức cái tính Phật sẵn có trong mỗi con người. Và khi càng mê muội, càng theo đuổi dục vọng nên con người càng bị lấn sâu vào khổ đau và tội lỗi. Con người cứ cho rằng cái thân ngũ uẩn này là Ta, là của Ta; tình cảm, lý trí, hiểu biết tư duy là Ta là của Ta cho nên luôn luôn tìm cách nuôi dưỡng và phát triển chúng cho đẹp đẽ hơn, cho hạnh phúc hơn trong cuộc sống tương lai. Và cũng vì vậy con người ngày càng đối đầu với bao nỗi khổ niềm đau không bao giờ dứt. Vì sao? Vì thân thể ta, sức khỏe ta, tình cảm, tri thức và ý chí ta luôn luôn biến đổi trong từng phút từng giây theo lẽ vô thường. Tất cả những biến đổi này ở ngoài sự kiểm soát của mình, do đó chúng gây ra các khổ đau, sầu muộn. Con người càng yêu cái Ta và cái của Ta bao nhiêu thì càng chịu đau khổ bấy nhiêu. Mặt khác, khi con người nhận ra mình có mặt ở đời thì theo giáo lý đạo Phật, cũng là lúc nhận ra thân ngũ uẩn này có được chính là nghiệp quả của nghiệp nhân những đời trước. Nó nằm ngoài ý muốn của bản thân từng người, do đó có thể không đáp ứng cái mong muốn của người ta về cái thân mình của họ. Cũng vì do nghiệp lực của quá khứ để lại và do lẽ vô thường, nên con người có thể phải hứng chịu mọi đau khổ theo quy luật sinh lão bệnh tử. Cho nên còn bám víu vào cái Ta và cái của Ta tức là còn chấp thủ uẩn thì còn khổ. Vì vậy mới nói Ngũ uẩn là gánh nặng.
Một số người do nhận thức cho rằng thân ngũ uẩn là gánh nặng làm cho đau khổ, họ có tư tưởng thoát ly thân ngũ uẩn để tìm đến Niết bàn an vui. Đây là nhận thức sai lầm lớn bởi vì cần thấy rằng thân tứ đại tuy mong manh, vô thường và do ngũ uẩn tác động làm cho đau khổ, nhưng đoạn diệt thân ngũ uẩn là cả một vấn đề vô cùng nguy hiểm, khi con người ta chưa đi đến đắc đạo.
Cần phải thấy rằng giáo lý của Đức Phật dạy chúng sinh diệt khổ để thân tâm an lạc, đi đến hạnh phúc ngay trong cuộc đời vô thường, có sinh có diệt, có đau khổ này, nghĩa là chúng sinh phải biết tu tập để có an lạc mà tự mình hóa giải hết những nỗi khổ niềm đau ngay trong thế giới Ta bà này, chứ Đức Phật không bao giờ dạy con người trốn khổ, cầu nguyện sang một thế giới khác để có an lạc thân tâm.
Vì vậy, nếu ngay trong thế giới Ta bà này, con người làm chủ được cái khổ tức là đã diệt khổ. Còn nếu con người không có khả năng diệt khổ thì nỗi khổ niềm đau sẽ luôn luôn theo như bóng theo hình dù cho họ có ở một thế giới nào mà không biết cách diệt khổ, họ vẫn phải sống trong cảnh khổ đau.
Do đó tôn chỉ của đạo Phật là diệt khổ chứ không trốn đời.
3.Sự thực hành Ngũ uẩn trong thực tế
Như trên đã nói một trong tám nỗi khổ mà Đức Phật đã tuyên giảng trong Tứ Diệu đế là Ngũ uẩn xí thạnh khổ. Hay nói khác đi để cho các uẩn hưng thịnh là khổ, cố níu vào thủ uẩn là khổ tức là chấp thủ ngũ uẩn là khổ. Thế thì thực hành Ngũ uẩn trong thực tế là gì ? Đó là từ sự hiểu biết được Ngũ uẩn là gánh nặng, mà cái gánh nặng đó chính là sự bám giữ các thủ uẩn : cái Ta, cái của Ta, là sự chấp thủ uẩn mà gây ra đau khổ cho con người nên phải tìm diệt cái nguyên nhân gây ra nỗi khổ đó.
Ta biết nguyên nhân gây ra tất cả những nỗi khổ đau của cuộc sống là do vô minh, là đều do ý thức, tư tưởng mà ra. Vì thế đức Phật dạy chúng sinh phải biết tu tập để chuyển đổi tất cả ý thức tư tưởng trở thành trí tuệ, mà có trí tuệ thì mới có thể chấm dứt khổ đau đạt đến thân tâm an lạc, đến giải thoát, Niết bàn. Vì thế tất cả mọi phiền não đau khổ trên thế gian này đều phát nguồn từ ý thức, tư tưởng mà ra. Mà khi đã tu tập để tư tưởng trở thành trí tuệ, đã quán chiếu được để thấy cuộc đời là vô thường, vô ngã, tịch tịnh thì đâu đâu cũng thanh tịnh, lúc nào cũng an vui tự tại. Một khi tư tưởng không bám víu vào những vướng mắc gây ra đau khổ thì sẽ đem lại sự an vui tự tại.
Trong kinh có kể câu chuyện có một lần Đức Phật đang trên đường đi khất thực, bị một vị Bà la môn chặn đường nói những lời thóa mạ nặng nề và thô lỗ, nhưng Đức Phật vẫn đứng im, nét mặt an nhiên tự tại không nói lại điều gì. Người Bà la môn hỏi Đức Phật : “Này ông Sa môn ! Cái lỗ tai ông có điếc không vậy ? ”. Đức Phật trả lời : “Không điếc !”. Vị Bà la môn lại hỏi : “Vậy cái miệng ông có câm không ?”. Đức Phật lại trả lời : “Không câm”. Ông Bà la môn lại hỏi :“Ông không câm, không điếc, thế sao nghe những lời tôi nói, ông không có biểu hiện gì trên nét mặt mà cũng không nói một câu”. Lúc bấy giờ Đức Phật mới hỏi ông Bà la môn : “Này ông Bà la môn, ông là người của giai cấp quý tộc, vậy khi có khách đến chơi nhà ông, ông đối đãi như thế nào ?” Vị Bà la môn trả lời : “Khách đến nhà, tôi sẽ thết đãi vật thực ngon và tặng quà khách”. Đức Phật lại hỏi : “Nếu khách người ta không ăn, không nhận thì sao ?” Vị Ba la môn trả lời : “Thì vợ chồng tôi thọ hưởng chứ sao !” Lúc bấy giờ Đức Phật mới nói : “Cũng như vậy đó, từ hồi nãy đến giờ ông dùng cái gì để thết đãi ta như là người khách, thì bây giờ hãy nhận lại”.
Xưa có một vị thiền sư bị ngã què chân, vì thế mà đi đứng nằm ngồi đều bị vướng víu, khổ sở vô cùng, nhất là khi phải di chuyển tụng kinh, hành thiền. Làm việc gì cũng bị lệ thuộc vào cái chân què, và thường phải đi sau và làm sau mọi người. Nhưng đến khi phải chuẩn bị cho ngày thị tịch, Ngài muốn ngồi kiết già nhập thiền mà nhập diệt. Nhưng cái chân què không chịu nghe Ngài, nó làm trở ngại không cho Ngài ngồi kiết già. Một hôm, đến ngày đến tháng, Ngài quyết định ngồi kiết già để nhập diệt, nhưng vừa đưa chân lên thì đau quá, Ngài quyết tâm lấy nắm cái chân què lên và nhủ thầm: “Bấy lâu nay ta theo mi, chiều mi đủ thứ, nay mi phải dứt khoát theo ta”. Khi ấy Ngài không kể đau đớn, cố bắt chân ngồi kiết già, thế là ngồi yên được. Như vậy nếu ta có một sự tự tại đối với Sắc, đối với Thọ, đối với Tưởng, đối với Hành, đối với Thức nghĩa là không chấp thủ ngũ uẩn như vị thiền sư thì chúng ta mới giải thoát được.
Ta còn thấy trong Kinh Kim Cương, Phật dạy tôn giả Tu Bồ Đề rằng : “Này Tu Bồ Đề ! Về quá khứ, ta làm vị Tiên nhân tu hạnh nhẫn nhục đến 500 đời, bị vua Ca Lợi cắt xẻo thân thể từng đoạn, nhưng ta không sân hận; vì ta không còn chấp bốn tướng : ngã, nhân, chúng sinh và thọ giả”.
Ta biết Lục Tổ Huệ Năng đã được Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn thuyết trọn kinh Kim Cương, đến câu “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” (Đừng để tâm vướng víu nơi nào), thì Lục Tổ thoát nhiên đại ngộ. Bởi vì vấn đề trọng tâm của bản kinh Kim Cương mà Đức Phật dạy là “Không trụ chấp vào bất cứ nơi nào”. Bản kinh đó bắt đầu bằng câu của tôn giả Tu Bồ Đề hỏi Phật :
“Làm sao hàng phục vọng tâm ?
Làm sao an trụ chân tâm?”
Đức Phật đã trả lời: “Này Tu Bồ Ðề ! Bồ tát phát tâm Bồ đề, phải xa lìa tất cả các chấp tướng. Bồ Tát không nên sinh tâm trụ chấp nơi sắc trần, thanh trần, hương trần, vị trần, xúc trần và pháp trần v.v...
Nói tóm lại, Bồ Tát đừng sinh vọng tâm trụ chấp một nơi nào cả. Nếu Bồ Tát tâm còn trụ chấp một nơi nào, thì không phải thật an trụ chân tâm”.
Như vậy, đức Phật dạy không được chấp vào bốn tướng ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả; không được chấp vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, tức là không chấp thủ uẩn, nghĩa là không trụ chấp vào một nơi nào cả, thì thân tâm mới an lạc, mới sinh tâm thanh tịnh. Mà tâm thanh tịnh ở đây là tâm Phật, là Chân tâm, là Phật tính.
Như trên đã nói tất cả mọi phiền não đau khổ trên thế gian này đều phát nguồn từ ý thức, tư tưởng mà ra. Nhưng làm sao chấm dứt tư tưởng?
Giáo lý của Đức Phật đề cập đến sự tu tập của hàng phật tử cũng như các hành giả có rất nhiều, sâu sắc và rất rộng, chung quy cũng để cho chúng sinh nhận thức được cái vô thường, khổ, vô ngã, duyên sinh, luân hồi, nghiệp lực và nhân quả. Đức Phật đã đề ra tám mươi tư nghìn pháp môn để phù hợp với từng căn cơ khác nhau của mọi chúng sinh. Nếu thấu hiểu dần từ bài giảng về Tứ Diệu đế, đến giáo lý về Mười hai nhân duyên, về Ngũ uẩn, thì mọi con người có thể áp dụng dần vào trong đời sống tu tập hàng ngày. Người ta có thể vận dụng những bài học vềTứ niệm xứ, về Bát chính đạo, về Tứ vô lượng tâm (từ, bi, hỷ, xả), về Tứ nhiếp pháp v.v…Đặc biệt là phương pháp quán chiếu trong thiền học, Đức Phật đã nói nhiều trong các bản kinh, nhất là trong kinh Vô Ngã Tướng, Đức Phật đã nói về các phương pháp quán chiếu để hiểu được ngũ uẩn là vô ngã, ngũ uẩn là vô thường, khổ và chịu sự biến hoại để nhận rõ về mỗi uẩn chẳng phải là của Ta, chẳng phải là Ta và chẳng phải là Tự ngã của ta. Phương pháp quán chiếu đó là phải quán niệm như thật về mười một phương diện của năm thủ uẩn.
Phương pháp quán chiếu đó gồm:
- Phương pháp tu Chỉ tức dùng thiền định hay niệm Phật để áp chế mọi vọng tưởng có thể sảy ra trong tư tưởng để có sự an lạc. Con người ta ai ai cũng ham mê về bản ngã (tức là chấp ngã) ngoại trừ các hành giả đã chứng đạo.
Bản ngã là nguồn gốc của vô minh, từ đó sinh ra ba thứ vô mình căn bản tức ba độc tham, sân, si. Do ba độc mà nảy sinh ra tham đắm về tài, sắc, danh, thực, thùy còn được gọi là đam mê theo ngũ dục lạc. Ngày nào con người còn lặn hụp trong tài sắc danh lợi an ngon ngủ kỹ này thì cuộc đời thường bị mê mờ, không bao giờ có được an vui, tự tại. Do đó tu theo sơ thiền sẽ làm cho tâm ta dần dần xa lìa cái bản ngã, khiến cho những căn bản phiền não tham sân si cũng dần dần tan biến làm cho thân tâm nhẹ nhàng, thanh tịnh và tự tại.
Trong phương pháp tu thiền, sau khi tu nhằm viễn ly, xa lìa bản ngã thì tiến tới tu định tức là thiền để định tâm mà sinh hỷ lạc.
- Phương pháp tu Quán tức là tu trí tuệ. Khi tâm đã định thì giai đoạn kế tiếp là tu Quán nghĩa là tiếp tục thiền định đến khi nhận chân được chân lý tức là trí tuệ phát sinh. Chỉ có trí tuệ mới có sức mạnh và công năng tiêu diệt ý thức, vọng tưởng. Đến đây thì những vi tế tham sân si mới thật sự bị hủy diệt, tâm hằng tự tại thanh tịnh Niết bàn.
Tu tuệ là phương tiện cứu cánh để chứng đắc. Một khi trí tuệ đã thấu suốt thì biết đời là vô thường, là khổ nhưng không trốn tránh cái khổ mà dùng trí tuệ để tận diệt chúng để có an vui tự tại. Nếu hành giả quán được vạn pháp giai không thì tâm không còn dính mắc, không còn lưu luyến hay bị nhận chìm đọa lạc.Vì vậy Đức Phật đã dạy rằng nếu xả bỏ tất cả thì sẽ được tất cả.
Tôn chỉ của đạo Phật là diệt khổ ngay trên cõi đời này chứ không trốn đời bởi vì khi ta quán chiếu để thấy rằng cuộc đời là vô thường, là vô ngã, là khổ não, là tịch tịnh thì ở đâu cũng thanh tịnh, làm việc gì cũng an vui tự tại. Vì vậy ta không còn bám vào ngũ uẩn và thủ uẩn để đi đến diệt hết nỗi khổ trên đời. Nắm vững giáo lý Ngũ uẩn chính là bài học diệt khổ để sống an vui tự tại ngay trên cõi đời này. Đó chính là con đường giải thoát mà đạo Phật hướng cho mọi chúng sinh đi tới.
V. KẾT LUẬN
V. KẾT LUẬN
Để kết luận, cần phải quán chiếu ngũ uẩn là vô thường, khổ, vô ngã để đi đến quyết tâm tu tập. Xin giới thiệu câu chuyện sau đây trong Kinh Pháp Cú : Chuyện công chúa Gia Nhã Ba được Ðức Phật giảng cho nghe bài pháp về Vô thường, Khổ và Vô ngã:
... Vào một thời khi Ðức Phật ngụ tại chùa Kỳ viên, nước Xá vệ. thuở ấy có một vị công chúa tên là Gia Nhã Ba nhan sắc rất đẹp đẽ, vốn là con người dì của Ðức Phật Thích ca. Công chúa sắp kết hôn với hoàng tử Nan Đà, nhưng vào ngày làm lễ cưới, hoàng tử lại theo Ðức Phật vào chùa đi tu. Sau này, chính bà mẹ của công chúa cũng quy y với Ðức Phật và trở thành một tỳ kheo ni. Trong cảnh cô đơn, công chúa nghĩ: "Mẹ ta, chồng ta đều đi tu cả. Thôi, ta cũng đi tu theo luôn!"... Tỳ kheo ni Gia Nhã Ba được nghe các bạn đồng tu bảo Ðức Phật thường giảng dạy rằng thân tâm ngũ uẩn này là vô thường, khổ và vô ngã. Vì còn chưa hiểu thấu nghĩa lý của đặc tính: vô thường, khổ và vô ngã, tỳ kheo ni Gia Nhã Ba tưởng lầm rằng, Ðức Phật chẳng khen ngợi chi đến sắc đẹp lộng lẫy của mình, nên thường tránh các dịp đến gặp Ðức Phật.
Nhưng các vị đồng tu thường tán thán Ðức Phật, cho nên bà mới quyết định theo họ đến chùa Kỳ viên để đảnh lễ đấng Thế tôn.
Khi Ðức Phật trông thấy công chúa Gia Nhã Ba đến chùa, Ngài nghĩ rằng: "Ðạp gai thì phải lấy gai mà nhể, tỳ kheo ni Gia Nhã Ba quá hãnh diện và quá trìu mến đến thân sắc của mình, phải làm sao cho bà thấy rõ sắc đẹp chóng tàn phai để dẹp bỏ sự hãnh diện và lòng tríu mến đó". Khi các vị Tỳ kheo ni đảnh lễ, Ðức Phật dùng sức thần thông của Ngài, tạo hình ảnh một thiếu nữ tuổi chừng mười sáu, rất đẹp đẽ, mỹ miều, đang cầm quạt, phe phẩy quạt sau lưng Ðức Phật, mà chỉ riêng có Gia Nhã Ba mới nhìn thấy được mà thôi. Gia Nhã Ba ngẩng đầu lên nhìn, thấy cô thiếu nữ nhan sắc đẹp tuyệt trần, so với nhan sắc của nàng còn hơn gấp bội. Gia Nhã Ba tiếp tục nhìn mãi, bỗng cô thiếu nữ từ từ trở thành một người thiếu phụ ba mươi tuổi, vẻ đẹp có phần sút giảm đi. Nhìn hồi lâu, bóng người thiếu phụ hóa thành một người đàn bà trung niên, tóc đã hoa râm, trên làn da mặt đã bắt đầu có vết nhăn. Bấy giờ, trong lòng Gia Nhã Ba mới nghĩ ra được sự chóng tàn phai của sắc đẹp, cùng sự suy yếu, già lão từ từ đến với tấm thân vật chất. Vào lúc ấy, bóng người đàn bà ngồi sau lưng Ðức Phật đã biến thành một cụ già, run rẩy, mệt nhọc cầm cây quạt, tay quạt một cách mệt mỏi. Sau cùng, cụ già đó lại lăn đùng ra chết. Mắt Gia Nhã Ba lại trông thấy thân thể cụ già sình lên, dòi bọ nhung nhúc. Lòng nàng nghĩ, thân thể của ta rồi đây cũng sẽ lại như thế, chẳng có cách nào tránh khỏi sự chết chóc được.
Ðức Phật đoán biết sự thay đổi tâm trạng của Gia Nhã Ba, liền thâu phép thần thông lại, và Ngài bắt đầu giảng bài pháp Ngũ uẩn, về Vô thường, Khổ và Vô ngãđối với thân tâm ngũ uẩn. Tỳ kheo ni Gia Nhã Ba lắng nghe, hiểu rõ và nhờ đó mà chứng đắc được quả vị Tu Đà Hòan.
Rồi Ðức Phật mới nói lên bài kệ sau đây:
Thân này là một cái thành
Xây bằng xương cốt và quanh bốn bề
Quét tô máu thịt bao che
Để mà chứa chất não nề bên trong
Sự già nua, sự tử vong
Chứa chan kiêu ngạo, chất chồng dối gian.
(Kinh Pháp Cú, Kệ số 150)
Giáo lý Ngũ uẩn chính là bài học diệt khổ để sống an vui tự tại ngay trên cõi đời này. Đó chính là con đường giải thoát mà đạo Phật hướng cho mọi chúng sinh đi tới.
Viết xong tại Ngọc Hà, Hà Nội
Ngày 21 tháng 7 năm Quý Tỵ (27.08.2013 – Phật lịch 2557)
Ngày 21 tháng 7 năm Quý Tỵ (27.08.2013 – Phật lịch 2557)
PHẠM ĐÌNH NHÂNPháp danh Chánh Tuệ Định
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét